Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Luận giải Huyền không phi tinh

--Nạp khí cổng cửa
--Lấy sinh vượng bỏ suy tử
--Cách vượng sơn vượng hướng
--Cách thượng sơn hạ thuỷ
--Thu sơn xuất sát
1.Nạp khí cổng cửa

Khí nạp vào ở cổng cửa chia làm hai loại cát hung chủ quản vấn đề hoạ phúc của cả một gia trạch. Cổng cửa quan trọng bởi lẽ nó quyết định đầu vào của khí, giống như sự hít thở hô hấp rất quan trọng của con người thông qua mũi miệng.


Phương pháp xem xét phải lấy phi tinh Huyền Không làm cơ bản cốt yếu, lấy khí sinh vượng của đương vận. Ví dụ như vận 8 sao Bát Bạch vượng tinh, lấy khí của sao Bát Bạch hoặc Cửu Tử, Nhất Bạch thì khí được sinh vượng. Tránh khí suy tử, khí Ngũ Hoàng, Bệnh Phù Nhị Hắc tối độc.


Kết hợp phi tinh Huyền Không với Bát Trạch làm yếu tố bổ trợ. Cổng cửa ở phương vị cát lành, tránh phương xấu như Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ, Hoạ Hại. Nếu kết hợp một yếu tố xấu với một yếu tố tốt thì có thể bổ trợ tránh được phần nào hung hoạ. “Bảo chiếu kinh” nói :thiên cơ diệu quyết bổn bất đồng, bát quái chích hữu nhất quái thông, kiền khôn cấn tốn triền hà vị, ất tân đinh quý lạc hà cung, giáp canh nhâm bính lai hà địa, tinh thần lưu chuyển yếu tương phùng, mạc bả thiên cương xưng diệu quyết, thác tương bát quái tác tiên tông.


Cổng cửa ví như xương sống, đường đi ví như gân cốt, nếu xương tốt nhưng gân cốt không tốt thì không thể đem lại sự tốt lành cho ngôi nhà. Đường đi dẫn khí phải tính toán sao cho việc dẫn khí đảm bảo tối đa hiệu quả, tránh những xung sát như cách xuyên tâm sát, liêm đao sát, thiên trảm sát. Xét cổng cửa, đường đi theo cửu cung bát quái, lấy phương suy vượng, tránh phương suy tử, lấy việc bài trí Phong Thuỷ xem như việc dưỡng sinh cho một cơ thể khoẻ mạnh.


2.Lấy sinh vượng bỏ suy tử

Theo phương pháp luận của Huyền Không thì cần nhất là vận tinh và phi tinh được sinh vượng tức là mang lại phúc. Khi vận tinh, phi tinh ở vào thế suy tử thì sẽ mang lại tai hoạ. Huyền Không không phân biệt các sao tốt xấu mà chỉ cần sự sinh vượng của sao, nếu một sao tốt nhưng ở thế suy tử cũng sẽ mang lại điều xấu. Ví dụ ở vận 8 thì các sao Bát Bach, Cửu Tử, Nhất Bạch là sao tốt, nếu gặp các sao này chiếu đến minh đường, cửa chính, cửa phụ sẽ rất tốt. Ngược lại nếu các sao suy tử như Nhị Hắc, Tam Bích, Ngũ Hoàng chiếu đến kết hợp với những cấm kỵ khác sẽ mang lại tai hoạ.

Trong một tinh bàn thì bao giờ cũng có những cung có vượng tinh chiếu và những cung có hung tinh chiếu. Các cung có vượng tinh chiếu nên nằm ở sơn hay hướng, nơi có cửa chính cửa phụ, những bộ phận quan trọng của căn nhà như phòng khách, phòng ngủ. Những cung có nhiều hung tinh chiếu nên nằm ở những phương vị tĩnh như vườn cây, nhà vệ sinh, nhà kho, nhà để xe...


3.Cách vượng sơn vượng hướng


Thuật Huyền Không luôn lấy vượng sơn vượng hướng làm cách cục cơ bản, tối kỵ thượng sơn hạ thuỷ. Phi tinh nếu phi thuận thì ứng với cách vượng sơn vượng hướng tức là vượng tinh xuất hiện ở phương toạ và xuất hiện ở hướng. Ngược lại nếu vượng tinh phi nghịch thì ứng với cách thượng sơn hạ thuỷ. Cách vượng sơn vượng hướng là tốt với điều kiện nhà cửa cần được cách toạ thật triều hư, tức là tựa vào sơn hướng thuỷ, phía sau có núi cao che chắn, phía trước minh đường rộng thoáng hoặc có sông, hồ, thuỷ tụ. Cách toạ thật triều hư ứng với cách vượng sơn vượng hướng bởi vượng tinh ở sơn cần có sơn để vượng đinh, vượng tinh ở hướng cần có thuỷ để vượng tài.


4.Cách thượng sơn hạ thuỷ


Đối với cách thượng sơn hạ thuỷ nói chung là xấu vì sơn tinh toạ ở hướng và hướng tinh toạ ở sơn, để sử dụng cần có cách toạ không triều mãn, tức là phía sau huyệt cần rộng thoáng có thuỷ, phía trước có sơn tinh án ngữ. Đối với cách toạ thật triều hư, thiên khí được nạp vào ở hướng nên cần có minh đường rộng thoáng có thuỷ đón lấy dương khí, địa khí nạp vào phía sau, cần có sơn tinh thu nạp âm khí. Ngược với cách này, cách toạ không triều mãn lấy thiên khí phía sau và nhận địa khí phía trước huyệt.


Phải quán xét sự lưu chuyển của khí, phối hợp để luận cho huyệt và dương trạch, lý khí cần đồng nhất, thu được khí tốt từng vận và tụ khí ở huyệt.


5.Thu sơn xuất sát


Huyền Không lấy lý khí tức là tinh bàn để xét sự phù hợp của loan đầu tức là địa hình xung quanh cuộc đất cần khảo sát. Phép tắc quan trọng của Huyền Không là xét sự sinh vượng của Phi Tinh để luận về núi non, sông hồ có hợp cách hay không gọi là phép thu sơn xuất sát. Nếu sông, núi bao xung quanh nằm hợp cách thì sơn khí và thuỷ khí của nó sẽ ảnh hưởng tốt, ngược lại sẽ có ảnh hưởng xấu đến gia vận.


Nguyên tắc xét đoán là nếu Hướng tinh vượng thì cần thuỷ, nếu hướng tinh suy thì cấm kỵ có thuỷ. Ngược lại với hướng tinh, sơn tinh vượng thì cần sơn và sơn tinh suy khí nếu có sơn là tối độc. Sơn tinh suy nếu có thuỷ sẽ có thể hoá giải được hung sát, Hướng tinh suy nếu có sơn cũng hoá giải được. Nếu sơn tinh và hướng tinh cùng vượng thì phương ấy cần có cả sơn cả thuỷ.


Ví dụ : Sơn Ngọ hướng Tí vận 8 lập chính hướng, tinh bàn như sau :


473 838 651


562 384 116


927 749 295



Phương Ly - Nam cả 2 sơn tinh và hướng tinh Bát Bạch đều vượng nên cần có cả sơn cả thuỷ để vượng đinh, vượng tài. Phương Khảm - Bắc cần có thuỷ, tối kỵ sơn vì sơn tinh Thất Xích thoái khí. Nếu có thuỷ sẽ rất vượng tài do hướng tinh Cửu Tử vượng khí 'nhưng cách cục này lại ít dùng nên cẩn thận Thủy khắc Hỏa".

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2013

Những Nguyên Nhân Của Phong Thủy Nhà Làm Cho Gia Chủ Phá Sản Hay Tai Họa

Những Nguyên Nhân Của Phong Thủy Nhà Làm Cho Gia Chủ Phá Sản Hay Tai Họa

https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQj8uAntrr0OoTG4cy16qwAbSL9W46y9HDC6ICsyZDDHQnXPp7Dpw
 Tại sao có nhiều nhà khi xây dựng nhà xong rồi, rất khang trang, to đẹp, có người còn chi phí cho ngôi nhà của mình đến gần 10 tỷ đồng. Có nhà hợp hướng với mệnh chủ, có nhà không hợp hướng, có nhà hướng lại được chính kim. Nhưng rất nhiều nhà sau khi đến ở thì mọi thứ trở nên thảm hại: làm ăn thua lỗ, bệnh tật, ốm đau, thất thoát quá nhiều. Vây nguyên nhân là ở đâu?
  Tại sao có nhiều nhà khi xây dựng nhà xong rồi, rất khang trang, to đẹp, có người còn chi phí cho ngôi nhà của mình đến gần 10 tỷ đồng. Có nhà hợp hướng với mệnh chủ, có nhà không hợp hướng, có nhà hướng lại được chính kim. Nhưng rất nhiều nhà sau khi đến ở thì mọi thứ trở nên thảm hại: làm ăn thua lỗ, bệnh tật, ốm đau, thất thoát quá nhiều. Vây nguyên nhân là ở đâu?

- Nguyên nhân thì có rất nhiều, có nguyên nhân do phạm vào hình thế bên ngoài:

+ Nhà bị con đường đâm trực diện hay hơi lệch,
+ Nhà bị đối diện với trại giam, cơ quan công quyền, đối diện nghĩa trang, đền đình...
+ Nhà bị góc nhọn đâm đến,
+ Nhà bị ngay cạnh nhà vệ sinh công cộng,
+ Nhà bị cô âm, cô dương,
+ Nhà bị ao xung trước nhà, hay bạch hổ há miệng,
+ Và các xung sát khác...
===== Những nguyên nhân này thì các chuyên gia phong thủy có kinh nghiệm xử lý hóa giải sẽ biến hung thành cát một cách nhanh nhất, thậm chí có người chỉ cần hóa giải ngày hôm trước (các đồ vật được khai quang và đặt dúng ngày giờ tốt theo Quẻ dịch) thì ngày hôm sau đã buôn bán tốt, có nhiều khách hàng, sự nghiệp thăng tiến.

- Nguyên nhân do bố trí trong nhà:

+ Tâm nhà bị xuyên tâm hoặc động khí: tức cầu thang đặt tại tâm nhà, hoặc tại tâm nhà có nhiều cửa của các phòng thông thiên tại khu vực trung cung.
+ Chân cầu thang đè lên trên bể phốt,
+ Bếp đặt không đúng cung vị tốt,
+ Bàn thờ đặt không đúng cung,
+ Các cung vị không được kích hoạt hoặc bị kìm hãm,
==== Đây là nguyên nhân khiến rất nhiều trường hợp dù nhiều nhà hợp hướng nhưng vẫn bại sản, gặp nhiêu tai họa khi về nhà mới.
Những trường hợp này thì phải thiết kế, Dùng các phép cao cấp trong địa lý như An Thân sát để phân cung và thay đổi vị trí các phòng ban để hấp thụ các khí tốt cho phòng thờ, bếp...Để làm được việc này đòi hỏi thầy phong thủy phải uyên thâm Phép An thần sát và có khả năng nhìn khí đất, sự di chuyển của khí đất thì mới hiệu nghiệm và biến hung thành cát.

- Nguyên nhân do ảnh hưởng của các sao. Đây là dựa theo sự di chuyển của cửu tinh trong huyền không phi tinh, tức sự di chuyển của chín ngôi sau (nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử), những ngôi sao này phi tinh theo vận (20 năm), phi tinh theo năm, theo tháng, theo ngày, giờ. Vậy như thế nào là phạm vào thế hao tài, tổn hại nhân đinh:

+ Nếu theo vận mà tại cung tọa có song tinh đáo tọa thì nhà này khi dựng xong và đến ở sẽ dần dần không còn một đồng nào, từ giàu trở thành nghèo hèn, khốn khó.
ví dụ trong vận 8, hướng nhà tại sơn ất, tọa tân thì tại cung tọa có 2 sao số 8. vì sao hướng tinh 8 bị lạc vào sơn tọa nên nhà này không có tài lộc.
+ Nếu theo vận mà thế trận sao trong cửu tinh bàn lập sơn hướng phạm phải thướng sơn há thủy, tức là sao đương vận của sơn tinh lạc vào cung hướng, còn sao hướng tinh đương vượng lạc vào sơn tọa sẽ là cho gia chủ khi nhập trạch sẽ tổn về nhân đinh, bệnh tật, tài lộc cũng không có, nghèo hèn và chết chóc.
+ Nếu vận bàn mà lập sơn hướng cho ngôi nhà tại cung hướng có 2 sao đương vận của sơn tinh và hướng tinh cùng đóng tại một cung thì chủ về vượng tài lộc nhưng nhân đinh thì bị hao tổn, không có con trai,
+ Nhiều vận bàn khác với những thế trận sao, và kết hợp với hình thế loan đầu sẽ làm cho ngôi nhà bị những ảnh hưởng xấu về nhân đinh hay tài lộc, điều này phải khảo sát thực tế, tính toán cụ thể thì mới có cách hóa giải.
+ Sao lưu niên theo năm cũng vô cùng tác động đến ngôi nhà. do đó cũng cần hóa giải.
Ví dụ năm nay 2013 sao ngũ hoàng nhập trung cung, nhất là những ngôi nhà có cầu thang tại tâm nhà, những nơi kinh doanh mà tại khu vực tâm nhà có hệ thống đèn điện, loa đài, màu sắc là màu vàng, hay đỏ sẽ làm cho ngôi nhà kinh doanh bị mất khách, ốm đau (phù thuộc vào bát tự ngày tháng, giờ năm sinh của mọi người thì sẽ biết hung hại ra sao).
===   Để hóa giả và kích hoạt cho những ngôi nhà này thầy phong thủy cần phải căn cứ vào hình thế bên ngoài để tính toán và thu sơn xuất sát cho đúng thì hóa hung thành cát. đồng thời kích hoạt bằng các pháp khí phong thủy theo những phép riêng nhất định sẽ giúp gia chủ biến hung thành cát ngay lập tức.

- Nguyên nhân tại Cửa cổng, cửa chính.

+ Cơ sở tính toán:
Dùng phép An thần sát để an thần sát cho cửu cung khí trường (địa lý cấp cao)
Dùng phép Khai môn điểm thần sát để mở cổng, cửa chính (địa lý cấp cao)
+ Khi tính toán 2 phép trên mà thấy cửa chính của ngôi nhà bị phạm vào khí thiên hình, đại sát, độc hỏa, thì ngôi nhà đó sẽ gặp họa và thất bại trong kinh doanh khi  về ở nhà mới.
+ Khi cửa chính gặp được khí thiên lộc, âm quý nhân, dương quý nhân, thiên mã thì đến ở nhà đó sẽ có đại lộc, đại phúc, mọi điều tốt lành.
+ Khi tâm nhà gặp độc hỏa, đại sát, thiên hình, thì làm cho 8 cung khác bị ảnh hưởng xấu, cũng là tai họa.
=== Trường hợp mà dùng 2 phép an thần sát trên thấy khí xấu tại cửa thì cần phải điều chỉnh mở cửa chính tại nơi có khí thiên lộc, thiên mã, âm quý nhân, dương quý nhân là tốt nhất. còn có thể dùng các vật liệu, đồ pháp khí phong thủy để hóa giải và kích hoạt nhanh nhất.
Trong phong thủy coi trọng cửa chính, cửa cổng, vì họa phúc do cửa mà gây ra. Do đó nếu cửa chính, cửa cổng tốt thì nhà đắc lộc, còn không tốt thì nhà gặp họa liên miên.

+ Chọn ngày giờ, tháng, Năm động thổ cũng là nguyên nhân gây họa, nếu chọn phải ngày sát chủ hoặc các ngày xấu theo quẻ dịch thì xây xong hoặc đang xây dựng sẽ gặp họa. nếu chọn ngày giờ tốt theo quẻ dịch thì mọi việc hanh thông.


Chính vì vậy khi xây dựng nhà cửa khách hàng hay nhờ đến phong thủy nhất nam thiết kế phong thủy cho ngôi nhà trước khi thiết kế xây dựng và xây cất để phân bổ các cung khí trường sao cho phù hợp với các phòng, vị trí bài trí nội thât trong nhà. có như vậy ngôi nhà của chúng ta mới là Một Trạch Cát.

NGUYÊN LÝ TÀN PHONG TỤ THỦY -CỦA THỦY PHÁP


1/Nguyên lý tụ - tán khí



Nói chung, thủy pháp là một quan niệm quan trọng trong thuật phong thủy, với bối cảnh xã hội hiện nay, khi luận về thủy pháp, nhà phong thủy vẫn chú trọng đặc biệt.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu cách vận dụng quan niệm thủy pháp của các nhà phong thủy hiện đại. Nguyên tắc của thuật phong thủy là phải “phong tang thủy tụ”

NGUYÊN LÝ TU TÁN CỦA THỦY PHÁP
Nói chung, thủy pháp là một quan niệm quan trọng trong thuật phong thủy, với bối cảnh xã hội hiện nay, khi luận về thủy pháp, nhà phong thủy vẫn chú trọng đặc biệt.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu cách vận dụng quan niệm thủy pháp của các nhà phong thủy hiện đại. Nguyên tắc của thuật phong thủy là phải “phong tang thủy tụ”

1.     Nghịch Thủy
-         Cuộc nghịch thủy tức là thủy khí đi ngược đến. Theo lý luận Loan Đầu cuộc Nghịch Thủy là cuộc vượng tài, vì nó tụ được thủy khí, do nguyên lý thủy chủ về tiền tài, Trái lại cuộc Thuận thủy là thủy chảy đi – là phá tài. Đối với kiến trúc dương trạch đón Nghịch thủy hay tiễn đưa Thuân thủy là căn cứ vào hướng cửa chính và đường đi bên ngoài, hoặc phối hợp với hành lanh bên ngoài trước nhà để phán đoán.
-         Đối với loan đầu dương trạch, người ta có tập quán lấy cửa chính để thu nhận thủy khí, cho nên cửa chính mở hướng nào là một điều quan trọng,nó ảnh hưởng tốt xấu đến đối với tài vận của bản trạch.
-         Đường sá, hành lanh đi bộ bên ngoài cửa đều có thể luận là “thủy”, nếu cửa đón được thủy tới được gọi là “thu thủy” hay “tiếp thủy” – chủ về tài vận hanh thông.
Đối với đường sá hay hành lang đi bộ, việc đoán định thủy tới không phải là đơn giản, chúng ta có thể khái quát thành những nguyên tắc sau:
-         Từ bên trái tới, bên phải tiếp: Nếu thủy (đường sá, hành lang đi bộ) đến từ bên trái thì cửa hiệu hay nhà nên mở của bên phải để đón thủy khí. Đây là lấy phương vị của Bạch hổ để đón thủy khí của Thanh long.
-         Từ bên phải tới, bên trái tiếp: Nếu thủy (đường sá, hành lang đi bộ) đến từ bên trái thì cửa hiệu hay nhà nên mở của bên trái để đón thủy khí. Đây là lấy phương vị của Thanh long để đón thủy khí của Bạch hổ. Các nhà phong thủy hiện đại còn phân biệt sự giới định thủy khí tới và đi của cầu vượt hay các con đường lớn với việc định thủy khí tới và đi ở các hành lang đi bộ của những căn hộ trong chung cư.
-         Trước tiên chúng ta bàn qua sự giới định thủy khí tới, hành lang đi bộ của những căn hộ trong khu chung cư.
a.      Hành lang đi bộ bên trái dài là thủy khí tới, hành lang bên phải ngắn là thủy khí đi. (Xem hình 1, 2).
    


         Hình 1.Mở cưả phương bạch hổ để tiếp thu thủy khí từ bên trái.
 
         

                  Hình 2.Mở cửa bạch hổ để tiếp thu thủy khí từ bên trái
 
b.     Hành lang đi bộ bên phải dài là hướng thủy khí tới, hành lang đi bộ bên trái ngắn là hướng thủy đi. (xem hình 3, 4).
 
              

                Hình 3.Cửa mở Thanh long để tiếp khủy khí từ bên phải tới
 
 
Hình 4
Cửa mở Thanh long để tiếp khủy khí từ bên phải tới
c.     Trên là phương pháp cơ bản để đoán định hướng thủy khí tới hay đi. Ngoài ra, trường hợp căn hộ ở trong các chung cư cao tầng, nhà Phong thủy hiện đại lại căn cứ hướng nào có thang máy thì hướng ấy phương thủy tới. (Xem hình 5, 6).
           Hình 5.Căn hộ phạm vào cách cuộc hư thủy đến rồi lại đi. Vì cửa nhà đối diện với cửa thang máy  
                                                        
   Hình 6.Mở cửa bên thanh long đón thủy khí từ bên phải tới nhưng do ảnh hương của thang máy nên phạm thoát tài

Chú ý:

1-    Cửa của nhà đối diện với cửa thang máy được xem là đối với thủy khẩu, Thủy khí thu được khó tụ. Đây là cuộc tài vận tụ tán thất thường, vì thủy đến và thủy đi đều cùng một vị trí. Có 2 cách hóa giải như sau:
-         Nếu hướng cửa ở phương quẻ đương vận ( theo lý luận của phái Huyền không phi tinh) hoặc ở phương vị cát (theo Phái Bát trạch) thì co thể vô hiệu hóa sự xung chiếu này.
-         Đặt tấm bình phong ở phía trong cửa.
2-    Trong trường hợp cửa mở ngay ở chính giữa ở phương vị chu tước thì tốt nhất nên có một minh đường nhỏ để thủy tụ khí, như vậy tài vận mới thuận.
2.     Thuận Thủy
Tương phản với Cuộc nghich thủy là cuộc Thuận thủy (tức thủy đi). Nếu trước cửa nhà đường bên trái dài hơn đường bên phải ngắn, chiều xe lưu thông từ trái qua phải, nhưng lại mở cửa phương vị thanh long (bên trái) thì đó là cuộc tống thủy. Ngược lại, nếu trước cửa nhà đường bên phải dài, bên trái ngắn, xe lưu thông từ bên phải sang bên trái, nhưng lại mở cửa bên phải thì cũng gọi là cuộc tống thủy. Đều chủ về tài vận đến rồi đi, khó tích tụ. (Xem hình 7, 8)
       
                                                          Hình 7
           
                                                            Hình 8


4. Cách luận đoán tụ khí hay tán khí



Hướng thủy khí đến là tụ, hướng thủy khí đi là tán, như đã nói ở mục trên, đường sá trước cửa nhà (tức hư thủy), bên dài là thủy khí đến, bên ngắn là thủy khí đi. Nhưng khí cửa hiệu đối diện với đường sá thì không thể dùng phương pháp đó mà phải phối hợp với chiều xe lưu thông.

CÁCH LUẬN ĐOÁN THỦY KHÍ TỤ HAY TÁN
Hướng thủy khí đến là tụ, hướng thủy khí đi là tán, như đã nói ở mục trên, đường sá trước cửa nhà (tức hư thủy), bên dài là thủy khí đến, bên ngắn là thủy khí đi. Nhưng khí cửa hiệu đối diện với đường sá thì không thể dùng phương pháp đó mà phải phối hợp với chiều xe lưu thông.
-         Nếu phía trước cửa nhà tiếp cận quá gần đường xe lưu thông, mà chiều xe lại chạy từ bên phải qua bên trái thì hướng thủy khí tới là bên phải và hướng thủy đi là bên trái, lúc ấy nên mở cửa bên trái tức bên thanh long để thu thủy khí của bên bạch hổ. (Xem hình 1, 2).


Hình 1. Đường xe lưu thông tiếp cận từ bên trái qua bên phải, đây là thủy khí đi từ bên trái qua bên phải, nên mở cửa phương bạch hổ để tiếp thủy khí.

Hình 2
Đường xe lưu thông tiếp cận từ bê phái qua bên trái, đây là cuộc thủy khí từ bên phải đến, nên mở cửa bên thanh long để tiếp thủy khí.
Ngoại trừ việc dùng chiều xe lưu thông, có một số con đường người ta phải căn cứ vào địa hình để định đoán thủy khí tới. Thí dụ như trong các khu thương nghiệp lớn, việc đoán định hướng thủy tới và hướng thủy đi trong ấy sẽ gặp khó khăn hơn nhiều. Thông thường người ta lấy vị trí của các cầu thang lên xuống để định hướng thủy tới. Mà việc đoán ảnh hưởng của tốt xấu do thủy tới và thủy đi cho các cửa hiệu cần phải lấy các tiêu chuẩn như: HÌnh dạng ôm lại, hay phản cung, đường bên trái dài hay bên phải dài.

5. Ảnh hưởng của đường sá đến kiến trúc dương trạch




Đường sá có nhiều hình thức ảnh hưởng khác nhau đến dương trạch, dưới đây là các cuộc cát, hung điển hình liên quan đến đường sá (về thủy lộ cũng luận giống vậy).

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐƯỜNG SÁ ĐẾN KIẾN TRÚC DƯƠNG TRẠCH
Đường sá có nhiều hình thức ảnh hưởng khác nhau đến dương trạch, dưới đây là các cuộc cát, hung điển hình liên quan đến đường sá (về thủy lộ cũng luận giống vậy).
1.     Thương sát
-         Thương sát là lực lượng làm tổn thương người trong bản trạch. Trước nhà có con đường đâm thẳng tới là thương sát. Phạm kỵ điều này là chủ trong nhà ngày càng suy thoái về kinh tế, hay bị thất bại trong kinh doanh,người trong nhà hay bị thương tật…

        
2.     Xung bối sát
-         Con đường đâm thẳng tới phía sau lưng nhà là cuộc Xung bối sát, chủ về bị tiểu nhân quẫy nhiễu, làm ăn hay bị người khác lừa đảo, cho dù chủ nhân trong nhà đó có trân thành hay làm tốt đến đâu thì cũng không được cấp trên chiếu cố.
           
3.     Tà thương sát
-         Tà thương sát là có con đường đâm chéo tới nhà, chủ về việc dễ phát sinh những điều ngoài ý muốn làm hao tài phá của. Đâm chéo bên trái tức là phương vị thanh long bị tổn thương, là chủ về đàn ông bị tổn hại. Đâm chéo về bên phải là bên Bạch hổ bị tổn thương, chủ về người phụ nữ bị tổn hại.
                  
4.     Tiêm xạ sát
-         Tiêm xạ có nghĩa là mũi nhọn bắn tới, có hai con đường bên phải và bên trái giao nhau thành góc nhọn hình tam giác xung thẳng tới phía trước nhà là phạm kỵ tiêm xạ sát, chủ về vì tiền bạc mà mất đạo nghĩa, tiền tài hao phá, chủ nhân cũng nhiều bệnh tật.
                     
5.     Tiễn đao sát
-         Tiễn đao sát là do ba hoặc bốn con đường giao nhau hình thành, giống như lưỡi kéo cắt căn nhà. Chủ về hao tài phá tài, tổn hại người trong nhà, tai họa ngoài ý muốn.
               
               


Chú ý: Với những trường hợp xung sát trên thì nên dùng 2 tượng ngoc Kỳ lân được khai quang cẩn thận và khối đá phong thủy trấn trước chỗ bị con đường đâm vào để hóa giải xung sát.
6.     Cát cước sát
-         Nhà quá gần xa lộ cao tốc cũng được xếp vào cuộc này, cát cước có nghĩa là cắt chân, nói chung cách cuộc này có tính chất thay đổi bất định. Chủ về việc vận khí của người trong nhà điên đảo, nên tài vận thất thường, tiền bạc khó tích tụ, đến rồi đi không giữ lâu được, ngoài ra còn dễ bị tai tiếng thị phi. Nhà cạnh sông lớn cũng được luận đoán như trên.
              
7.     Liêm đao sát
-         Liêm đao là cái hình lưỡi liềm. Phái loan đầu hiện đại cho rằng xa lloj cầu uốn lượn ưỡn bụng hướng về bản trạch giống như chém tới là phạm kỵ Liêm đao sát. Hoặc con đường phía trước uốn vòng cung trước nhà cũng phạm tiểu Liêm đao sát. Nhà phạm Liêm đao sát thì chủ về hao tài, người trong nhà bị tổn thương.
             
Tiểu liêm đao sát

8.     Đao trảm sát
-         Đao trảm sát là có con đường giống như 1 thanh đao chém tới bản trạch, sát khí của nó nhẹ hơn so với Liêm đao sát, nhưng phạm vào cấm kỵ này cũng chủ về tổn hại người, gặp nhiêu diều ngoài ý muốn, hao tài.
                 
9.     Tỉnh tự sát
-         Tỉnh tự sát là Bốn phía nhà đều có đường bao quanh giống như chũ tỉnh (là cái giếng), chủ về trong nhà vận khí điên đảo, tài vận đến rồi lại đi.
               
10.                        Hoàn bão thủy
-         Hoàn bão thủy là phía trước nhà có đường hoặc sông nước uốn cong ôm bản trạch, tục gọi là “ngọc đới hoàn yêu” hoặc “bão thân thủy”, chủ về tài vận thuận lợi và dễ tích lũy.
       


                            
11.                        Long hổ đâu bão
-         Long hổ đâu bão là hai bên ngôi nhà có hai con đường uốn cong ôm lấy ngôi nhà, chủ về tài vận thuận lợi và dễ tích lũy.
           
12.Toàn đường thủy
-         Toàn đường thủy là nơi đường sá tụ hội thành vòng tròn, đây là cách cuộc “minh đường thủy”, tiền bạc vượng cát. Với kiến trúc hiện đại thì đó là những ngã 3, ngã 4 có vòng xuyến.
 

        



---------------------------------------------------------------------------------------------------------



Trung Châu Huyền không thuỷ pháp

Âm Dương 2 trạch trọng thuỷ như nhau.

Thuỷ pháp này có thể dùng riêng biệt, tuy nhiên nếu biết phối hợp với Bài long quyết, An tinh quyết và Thu sơn xuất sát quyết thì hiệu nghiệm vô cùng. Rành rẽ được các thứ này thì có thể được xem là Hạ sư phong thuỷ Trung Châu.

Thuỷ là thực thuỷ, là đường sá, là đường đi lối lại...


Trung Châu Huyền không phong thuỷ sâu xa khó đoán, thuỷ pháp này lại dùng Tiên thiên nên người nhập môn nếu tiếp cận ngay sẽ thấy khó, do vậy Nam Phong đúc kết phần này bằng hình ảnh và giải thích ngắn gọn để mọi người đều có thể dùng, theo đó mà chọn được một nơi ở tương đối hợp lý, không phát thì cũng được bình an.


1. Đối xung thuỷ: Gọi đối xung vì nó trực thẳng mà đến. Nhà, mộ lập nhằm vị trí này là hung.

(NP nói thêm: nếu am hiểu Bài long pháp và dùng hợp lý Thu sơn xuất sát pháp thì chọn được Cự môn long ở hướng, hoặc đương vận long ở hướng như vận 8 này được Tả phụ long, hợp cùng thu sơn xuất sát pháp thì tốc phát nhưng có thương tổn về người, qua vận thì phải dời nơi khác ngay)
2. Phản cung thuỷ: phản cung vì như hình cánh cung phản ngược, đây là sát thuỷ, phàm mộ trạch gặp phải dù tinh bàn vượng sơn vượng hướng cũng bại.
Nam Phong nói thêm: phản cung không thể xem thường, như lập tý sơn ngọ hướng, phản cung đến trước mặt tức là cung từ ngọ phản về tý. Năm Tý-Ngọ là nặng nhất, Tị Mùi cũng không nhẹ, Dần Thân cũng như vậy. Nếu hội cùng ngũ hoàng, tam sát thì càng nặng hơn. Nhà Hồ(soán ngôi nhà Trần) bại vong nhanh cũng vì cái này.



3. Cát cước thuỷ:
cát cước tức là cắt chân, là hung thuỷ.

Nam Phong nói thêm: thường cát cước thuỷ là hung thuỷ. Đúng như vậy, càng gần càng hung, tuy nhiên xa thì vô lực, đôi khi lại hoá cát. Vì sao hung chuyển cát? Nếu tại đó thuỷ tinh(hướng tinh) vượng mà lại không khắc(như vận 8 này thì sao 8 hoặc 1, sao 9 không dùng được do xung khắc), thì cát cước thuỷ trở thành thôi tài thuỷ. Thế nào là xa, thế nào là gần? đó là do nhãn lực của người làm phong thuỷ quán xét: nhà nhỏ, thuỷ nhỏ thì 10m được coi là xa; nhà lớn, thuỷ lớn thì 30m vẫn là gần.



Ghi chú: Thuỷ hay Lộ, đường sá đều cùng một nghĩa. 
 Phần trên NP giới thiệu tam sát thuỷ để mọi người lưu tâm mà tránh, dưới đây bắt đầu đi vào chi tiết về thuỷ pháp.

Dương trạch thuỷ pháp chủ yếu quan sát sự phân bố của đường sá, trong thuỷ pháp phân làm chủ lưu(chủ thuỷ) và chi thuỷ(thuỷ phụ) thì trong dương trạch cũng theo đó mà phân thành đường lớn và đường nhỏ, không có một nguyên tắc cứng nhắc cho việc phân chia này, chỉ có thực hành nhiều thì biết được thôi. Nguyên tắc chung là nơi cư trú nên ở đường nhỏ mà không nên ở đường lớn, nên ở nơi xe cộ lưu thông thong thả mà không nên ở nơi xe cộ lưu thông quá nhanh(như đường cao tốc) vì như vậy thì vượng khí đến rồi trôi đi mà không giữ lại được. Nếu cư trú trên các đại lộ thì những nơi nào xe cộ hay dừng(đèn xanh đỏ, trạm xe buýt..) thì đó chính là những nơi tụ khí, là nơi ở tốt.

Học tập dương trạch thuỷ pháp cần chú ý: thời xưa thuỷ lưu hay đường sá chỉ có đơn hướng mà thôi, hiện nay phần nhiều đường chia 2, 3, 4 làn đường, ở hai bên đường vì vậy mà lai thuỷ và khứ thuỷ khác nhau, do đó mà cát hung cũng khác nhau, do đó mà an tinh lập hướng thấy thì như nhau nhưng vượng suy lại không như nhau.
Thuỷ pháp là cái trước tiên cần phải xét đến khi chọn một nơi để ở, nếu thuỷ không hợp cục thì bài long có cát, an tinh có vượng sơn vượng hướng cũng là cát hung lẫn lộn. Trung Châu phái trong trường hợp này nói rằng khi thuỷ không hợp cục thì không cần phải Bài long hay an tinh bàn gì cả, đó là ý nói nên chọn nơi khác. Tuy nhiên theo quan điểm của NP thì hiện nay ở thành thị không phải muốn chọn là chọn được, do đó mà nên cân nhắc nặng nhẹ, được mất để mà quyết định, trong Tam quyết Trung Châu thì quyết thứ 3: Thu sơn xuất sát có thể dùng để chế ngự thuỷ sai cục.

Đồ hình thứ 1:


Nhà ở đối diện hoặc sau lưng nhà có đại lộ như hình trên, nếu tốc độ xe cộ lưu thông nhanh, không dừng lại thì có bài được cát long và cục vượng sơn vượng hướng thì cũng không được lâu dài do khí vượng thì có vượng nhưng lại không tụ lại được(NP nói thêm: trường hợp này khéo dùng Thu sơn xuất sát quyết sẽ thu được vượng khí: dòng xe từ bên trái qua thì mở cửa bên phải để thu và ngược lại). Nếu dòng xe lưu thông chậm và có nhiều điểm dừng trên đường thì nơi đây khí tụ, nên chọn làm nơi ở. 
Đồ hình thứ 2:


Dòng xe cộ lưu thông ở chủ lưu nếu từ phải qua trái như trên thì cát, ở nơi đây tốt. Khi chủ lưu chuyển vào chi thuỷ thì tất nhiên tốc độ xe cộ lưu thông sẽ giảm(đường lớn vào đường nhỏ), nên ở gần đây sẽ hấp thu được vượng khí, cửa nên mở rộng cánh ở giữa. Nếu nhà ở ngược lại bên kia đường thì phạm sát khí(phản cung).

Nếu chủ lưu đi theo chiều ngược lại(từ trái qua phải) thì nhà nên ở càng gần góc ngã ba(tam xoa thuỷ khẩu) thì càng tốt, nếu ở xa sẽ khó thu được vượng khí, bổ cứu bằng cách mở cửa bên tay phải nhà để đón khí từ trái qua. Nếu nhà ở ngược lại bên kia đường thì mở cửa bên tay trái nhà để thu vượng khí.
 
Đồ hình thứ 3:



Nếu tốc độ xe cộ lưu thông không quá nhanh thì đây chính là cục tụ khí, bài đắc cát long đến hướng thì rất nên chọn làm nơi cư trú.

Nếu bài nhằm hung long thì bán cát bán hung.
(Nam Phong chú thêm: trường hợp bài nhằm hung long đến hướng thì có thể hoá sát vi quyền bằng cách dịch chuyển cửa chính đón cát khí nơi cửa, đón cát long nơi cửa thì chế được hung long đầu hướng. Nếu biết cách thông khí Tam quái số thì đại phát trong đương vận.) Trich : NamPhong
__________________

DƯƠNG TRẠCH 30 NGUYÊN TẮC ( theo huyền không phi)

1/ Ở thôn quê không khí thông thoáng phép lập trạch phải thu cả sơn  lẩn thủy thì mới được tốt, Nơi thành thị khí tụ, tuy không có nước để thu  mà có nhà lân cận lồi lõm thấp cao, đường xá quanh co rộng hẹp, thấp lõm uốn khúc rộng là thủy, lồi cao thẳng hẹp là sơn .

 2/ Ai tinh, âm dương trạch ai tinh không khác, lấy nguyên vận thụ khí làm chủ, sơn hướng phi tinh với khách tinh gia lâm làm dụng, âm trạch trọng thủy, dương trạch trọng môn hướng, nhưng môn hướng sở dỉ nạp khí, như ngoài cửa có nước óng ánh,thì tốt hơn đường lộ, suy vượng do thủy, cân nhắc do lý của sao, cũng là không khác vậy. )
 4/ Hoàn cảnh đường cục, phàm xem dương trạch, trước xem hình thế khí mạch của núi sông có hợp cục không, sau xem lộ đi và chu vi của ngoài 6 việc, nóc nhọn nhà lân cận cột cờ mồ mã chùa chiền cây cối các vật tọa lạc ở tinh cung nào, phân biện suy vượng để đoán cát hung.
 5/ Cửa cái mở xê bên ----, phàm dương trạch lấy đầu hướng cửa cái nạp khí mà đoán cát hung, cửa cái mở xê một bên, tức phải dùng hướng cửa và hướng nhà, hợp hai bàn mà xem, ngoại cát nội hung, khó tránh nầy nọ, nội cát ngoại hung, chỉ được khá giả.
 6/ Nhà lớn cửa nhỏ, phàm nhà với cửa lớn nhỏ phải tương xứng với nhau, nếu nhà lớn cửa nhỏ sẽ không tốt, nhưng hướng nhà hướng cửa sinh vượng thì không sao.
7/ Thừa vượng khai môn,--- phàm nhà củ muốn mở cửa vượng, phải lấy thời gian từ ngày xây cất, phi tinh của vận đó mà suy luận, như vận nhất bạch lập nhâm sơn bính hướng, vượng tinh đáo tọa, không phải nhà tốt, đến vận tam bích mở cửa tại giáp, thì mới hấp thu được vượng khí, vì lúc xây cất hướng thượng phi tinh tam bích đáo chấn,, giao vận tam thừa thời đắc lệnh, không phải là chấn tam của địa bàn, nếu khai môn tại mão cũng phài kiêm giáp, mới được khí đồng nguyên của sơn hướng vậy,
 8/ Tân khai vượng môn, -- phàm nhà củ mở vượng môn sau, phép đoán dùng hướng cửa khỏi dùng hướng nhà, đặt bếp lập phòng cũng dùng hướng cửa mà định vị, tức theo đó trước, là chỉ đại khai vượng môn, nếu như cửa cái bị che lấp, hoặc đóng kín, thì xét phương hướng âm dương thuận nghịch, mà thừa thời lập hướng, như mở cửa nhỏ để thông vượng khí, phải dùng đồng nguyên nhất khí, vẩn theo lúc khởi tạo lập cục hướng nhà mà luận đoán thì được .
 9/ Vượng Môn bế tắc,--- phàm sở khai vượng môn, trước mặt có nhà bế tắc, không thể trực đáo, thì mở thêm 1 cửa nhỏ kế bên để thông với vượng môn, tức cửa nhỏ kể như khí con đường thông qua vậy, khỏi cần đặt la bàn xem,
 10/ Vượng môn nền cao,--- ngoài cửa vượng môn có nước, vốn là đại cát, nhung nền cửa lại cao hơn nền nhà, tuy có vượng thủy nhưng không thu được, nền cửa cao hơn nội minh đường cũng vậy, như ngoài cửa lộ cao, thì luận cách khác,
 Tràng sinh thủy pháp cho dương trạch

Đầu tiên phải xem thế đất Âm hay Dương.
- Âm Long là thế đất từ phải chạy sang trái, giống như đi ngược chiều kim đồng hồ vậy.
- Dương Long là thế đất chạy từ trái sang phải, giống như đi thuận chiều kim đồng hồ vậy.
Thế đất dương thì vòng Tràng sinh đi thuận, thế đất âm thì vòng Tràng sinh đi nghịch.
Thế đất Dương phải phối với Thủy Âm - Thế đất Âm phải phối với Thủy Dương.
Cách 1: Khởi cung dựa theo đặt tính nhành của Sơn để chọn cung Trường sinh ở đâu.
1. Nếu long (tọa sơn) đến từ các sơn thuộc Thủy: Hợi, Nhâm, Tý, Quý thì:
- Trường sinh thuận tại Thân;
- Trường sinh nghịch tại Mão;
2. Nếu long (tọa sơn) đến từ các sơn thuộc Mộc: Dần, Giáp, Mão, Ất, Tốn thì:
- Trường sinh thuận tại Hợi;
- Trường sinh nghịch tại Ngọ;
3. Nếu long (tọa sơn) đến từ các sơn thuộc Hỏa: Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh thì:
- Trường sinh thuận tại Dần;
- Trường sinh nghịch tại Dậu;
4. Nếu long (tọa sơn) đến từ các sơn thuộc Kim: Thân, Canh, Dậu, Tân, Càn thì:
- Trường sinh thuận tại Tỵ;
- Trường sinh nghịch tại Tý;
5. Nếu long (tọa sơn) đến từ các sơn thuộc Thổ: Cấn, Khôn, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì:
- Trường sinh thuận tại Thân;
- Trường sinh nghịch tại Mão;
Ví dụ: long đến từ các sơn thuộc Thủy.
Cách 2: Khởi cung dựa theo đặc tính Tam hợp cục Nhành của Sơn địa chi trong song sơn, để chọn cung Trường sinh ở đâu.
1. Khi long (tọa sơn) là: Khôn, Nhâm, Ất, Thân, Tý, Thìn - Thủy cục.
- Trường sinh thuận tại Thân;
- Trường sinh nghịch tại Mão;
2. Khi long (tọa sơn) là: Cấn, Bính, Tân, Dần, Ngọ, Tuất - Hỏa cục
- Trường sinh thuận tại Dần;
- Trường sinh nghịch tại Dậu;
3. Khi long (tọa sơn) là: Tốn, Canh, Quý, Tỵ, Dậu, Sửu - Kim cục
- Trường sinh thuận tại Tỵ;
- Trường sinh nghịch tại Tý;
4. Khi long (tọa sơn) là: Càn, Giáp, Đinh, Hợi, Mão, Mùi - Mộc cục
- Trường sinh thuận tại Hợi;
- Trường sinh nghịch tại Ngọ;
Ví dụ: Tràng sinh thuộc Hỏa cục

Có 2 cách để dễ nhớ cho các vòng Âm Dương này:
- Cung Lâm Quan của Dương là Đế Vượng của Âm, và ngược lại, Đế Vượng của Dương là Lâm Quan của Âm.
- Dương khời Trường Sinh tại cung đầu tiên trong Tam Hợp, Âm khởi Trường Sinh tại cung cuối cùng trong Tam Hợp lùi lại 1 cung.
Tùy cuộc đất mà sử dụng cách nào.
Còn một số cách lập tràng sinh khác thường chỉ dùng trong âm trạch.
Ý nghĩa vòng tràng sinh và ứng dụng sa, thủy thì có nhiều trong các sách vở, tài liệu khác, nên tôi không viết lại nữa.
Cửu Tinh Thủy Pháp Huyền Không

Cửu tinh Thủy Pháp Huyền không đoán cát hung.

- Nhâm sơn bính hướng:

Thế hướng kiêm hợi tị phân kim, tọa đinh hợi hướng đinh tị phân kim, giữ tọa thất(trừ) tam độ hướng dực(cộng) tam độ, thất thập nhị long quý hợi, đinh tị đại lợi, với thiếu nam phối thiếu nữ, phòng phòng vận phát, Năm tị dậu sửu đinh tài lưỡng vượng, bính lộc tại tị là hỏa lộc chi phân kim, tử tôn danh thành lợi tựu, thuận phương bính phong khởi thị đái lộc chi sơn phong và danh xá văn sát không hung họa cát vậy, phú quý khoa giáp tú tài thư hương, như thủy sung tị tiện thị thủy phá hướng, thuận huyệt lấy bính tị thủy đến lập bính tị hướng cùng đại cát lợi vậy.
Thế hướng thuận kiêm tý ngọ tam phân, trái thường bất lợi, nhân lưỡng hỏa tương xạ, âm dương phức tạp, Năm dần ngọ tuất phòng hỏa tai, đinh tài dần dần thối, vừa phạm liêm trinh, xuất kiêu căng, ngỗ nghịch chi nhân, thụ hỏa bệnh dịch thổ huyết hung tử.
 Cửu tinh thủy pháp đoán:

Cấn phủ thủy: nhất tứ phòng năm tị dậu sửu phát đinh trẻ đẹp, phát tài, xuất văn võ tiến sĩ, yêu nhất đại kỉ hậu chiêu đinh, về sau cát.

Bính phủ thủy: nhị ngũ phòng năm tị dậu sửu phát người tài trẽ, thần đồng văn võ công danh trạng nguyên, một đời sau bại, chiêu đinh khứ cát.
Tốn vũ thủy: nhất tứ phòng năm tị dậu sửu phát, người trẽ sắc đẹp, phát ngoại tài, xuất văn cử vũ hưng, cống sanh, yêu nhị đại, bại hậu chiêu đinh, lai thủy cát, khứ thủy hung.
Tân vũ thủy: tam phòng yêu, đồng thượng (tốn vũ thủy).
canh tham thủy: nhị ngũ phòng năm tị dậu sửu phát người trẽ tài hơn người, tiên hung hậu cát, tam đại thối bại, về sau cát.
Hợi tham thủy: nhất tứ phòng năm hợi mão mùi (đồng thượng).
Mão tham thủy: nhị ngũ phòng năm hợi mão mùi (đồng thượng).
Mùi tham thủy: nhị lục phòng năm hợi mão mùi phát người trẽ tài, tiên hung hậu cát, tam đại thối bại, thủy loan khứ, lai cát khứ cát.
Đinh tị thủy: tam lục phòng năm hợi mão mùi phát người đa tài, xuất văn vũ thiếu niên quan viên lưỡng tỉnh đề thai cửu đại cống sanh.
Tị cự thủy: nhất tứ phòng phát đinh đa tài, cửu đại tử tôn.
Dậu sửu thủy: tam lục phòng nhân thập song sanh nhân cửu đại tử tôn.
kiền phá thủy: nhất tứ phòng năm dần ngọ tuất bại, người thổ huyết đại bệnh, hảo sắc, quan ti hữu nghĩ nê(mềm yếu).
Giáp phá thủy: nhị ngũ phòng năm dần ngọ tuất bại đinh tài thiếu, bệnh 、đầu 、điếu 、li bại tuyệt.
Nhâm liêm thủy: nhị ngũ phòng năm thân tý thìn bại, đinh thiếu tráng huyết, đầu 、điếu 、thực dược cửu tắc tuyệt.
Dần liêm thủy: nhất tứ phòng, năm dần ngọ tuất bại, đinh thiểu bệnh, đầu 、điếu 、thực dược cửu tắc tuyệt quả.
Ngọ liêm thủy: nhị ngũ phòng năm dần ngọ tuất bại, đinh khẩu khuyết, manh mục, bả túc, đầu 、điếu, cửu tắc tuyệt.
Tuất liêm thủy: tam lục phòng năm dần ngọ tuất bại đinh tài, đổ tiện bạch lị 、phong điên 、đầu điếu.
Quý lục thủy: tam lục phòng năm thân tý thìn bại đinh tài, cờ bạc, tiếp trang, đầu điếu, cửu tắc quả tuyệt.
Thân lục thủy: nhất tứ phòng năm thân tý thìn bại đinh tài, cờ bạc, đầu điếu cửu bại tuyệt.
Tý lục thủy: nhị ngũ phòng năm thân tý thìn bại đinh tài, khẩu khuyết phá túc, cửu tắc tuyệt.
Thìn lục thủy: tam lục phòng năm thân tý thìn bại đinh bạch lị phong điên, lâu tắc tuyệt có thủy.
Khôn văn thủy: nhất tứ phòng năm thân tý thìn bại đinh tài, hảo sắc chẳng tiến.
Ất văn thủy: tam đại phòng năm thân tý thìn bại nhanh cờ bạc hảo sắc khí cái nhân tắc tuyệt có thủy.
Thủy khẩu đoán cát hung:

Thủy xuất tân tuất phương: tả thủy đảo hữu xuất tân tuất, làm chánh vượng hướng, gọi là tam hợp liên châu quý vô giới, hợp Dương công cứu bần tiến khôn sanh lai hội vượng, ngọc đái lũ yêu kim thành thủy pháp, đại phú đại quý, nhân đinh xương sí, trung hiếu hiền lương: nam nữ cao thọ, phòng phòng vô dị, phát phúc miên viễn, như đắc vượng sơn phì mãn, vượng thủy triêu tụ phú bỉ thạch sùng.


Thủy xuất đinh mùi phương: tả thủy đảo hữu xuất đinh mùi, tự vượng hướng, danh vi hữu suy phương khả khứ lai, phát phú phát quý thọ cao đinh vượng.

Thủy xuất giáp mão phương: hữu thủy đảo tả tòng giáp mão xuất, mộc dục phương tiêu thủy;danh lộc tồn lưu tẫn bội kim ngư, phú quý song toàn, nhân đinh hưng vượng, phạm dần 、mão nhị tự, phi dâm tức tuyệt bất khả khinh dụng.

Thủy xuất tốn tị phương: thủy xuất tốn tị phương là trùng phá hướng thượng lâm quan phạm sát nhân đại hoàng tuyền, táng tuất tài chi tử, lập chủ bại tuyệt, tịnh phạm nhuyễn cước, phong điên, lao tật, thổ huyết đẳng chứng tiên thương nhị phòng thứ cập biệt phòng.


Thủy xuất ất thìn phương: lưu phá hướng thượng quan đái, chủ thương niên ấu thông minh chi tý, tịnh khuê trung ấu phụ thiếu nữ, thối bại điền sản, cửu tắc bại tuyệt, thân tý thìn niên sát dần ngọ tuất sanh nhân.


Thủy xuất quý sửu phương: trùng phá hướng thượng dưỡng vị, chủ thương nhân, bại tài, phạp tự, phạm thối thần mộc dục chẳng lập hướng.


Thủy xuất nhâm tý phương: thủy xuất nhâm tý phương chủ trùng phá thai thần, chủ trụy thai thương nhân, sơ niên đinh tài hơi lợi, cửu(về sau) tắc bại tuyệt, thử danh quá quan thủy, có thọ không tài.


Thủy xuất kiền hợi phương: danh quá quan thủy, tình quá nhi kháng, thái công bát thập ngộ văn vương, tức thế thủy pháp, sơ niên hữu đinh thọ không tài, thủy bất quy khố cố vậy.


Thủy xuất canh dậu phương: vi giao như bất cập phạm nhan hồi yêu thọ thủy, bại sản, phạp tự, sơ niên diệc hữu sảo lợi giả, tiên thương tam môn, hữu đinh không tài, hữu tài không đinh, hữu công danh tức thất huyết yểu vong, phúc 、lộc 、thọ chẳng tề toàn, tử phương tiêu thủy cố vậy.


Thủy xuất khôn thân phương: thủy xuất khôn thân bệnh phương, phạm đoản mệnh quả túc(giữ) thủy, nam nhân thọ đoản, tất xuất cô quả ngũ 、lục nhân, bại sản tuyệt tự, tịnh phạm khái thấu 、thổ đàm 、lao tật đẳng chứng, tiên bại tam phòng, thứ cập biệt phòng, phàm bệnh 、tử nhị phương tiêu thủy phát hung tương tự.


Thủy xuất cấn dần phương: là vượng khứ trùng sanh phạm tuy có tài vậy gánh vác, tiểu nhân nan dưỡng, giàu mà không con, thập hữu cửu sắc, tiên bại tuyệt trường phòng, thứ cập biệt môn.


Thủy tòng bính tự phương xuất: hữu thủy đảo tả, tòng hướng thượng bính tự xuất khứ, chẳng phạm ngọ tự, do tu bách bộ chuyển lan, hợp thủy cục thai hướng thai phương xuất thủy, vị chi xuất sát, bất tác trùng thai luận, chủ đại phú đại quý, nhân đinh hưng vượng, chỉ nội trung gian có thọ đoản(ngắn) giả, xuất ấu phụ quả cô, nhược phi long chân huyệt đích, táng hậu bất bại tức tuyệt, bất khả khinh sáp.


Thủy xuất ngọ phương xuất: tả hữu nhị thủy hợp xuất ngọ phương, lưu phá đế vượng, thư vân ngọ cung khứ thủy tất thổ huyết, liệt hỏa phần gia tặc án hung;hoặc thuyết quý long nhập thủ, đái đinh tam phân, bất xuất ngọ ben cát, bí vân tị thủy triêu đường xuất ngọ phương, cung trùng vượng vị phá điền trang: thân tý thìn niên đáo, ải tử tịnh thương vong lai cát khứ hung, phát mãn thường, lâu cư tài tử kiến tiêu vong, thần nghiệm.


Thủy xuất đinh phương cát: thủy xuất đinh biến mộc cục, phản tử hướng mộ lưu đại cát, hựu vân vượng hướng xuất suy phương hợp cục, tốn thủy lai thị lâm quan, danh vi ngũ quỷ khởi tài nhập thất, thư vân: hỏa vi lập hướng thủy xuất đinh, cấn nạp bính hề tốn nạp tân, suy vị khứ thủy trường phòng tân tị đắc hoàng kim, cấn dần kiêm quý sửu thập nhị niên hậu khoa giáp hữu.


Thủy khẩu xuất mùi phương hung: tả thủy đảo hữu, thủy khẩu xuất mùi phương đại hung, thư vân: thiên mã lập hướng tối vi lương, địa chi xuất thủy phạm thiên cương, ngọ hướng tốn lai thị lâm quan, tiên cát hậu hung đại gian đương, táng lâu tất nhiên tuyệt nhân đinh, ngũ thập niên hậu nhất tảo không, hợi mão mùi niên ứng chi.


Thủy khẩu xuất canh cát: tả thủy đảo hữu, thủy khẩu xuất canh, biến mộc cục, vi tử hướng thai lưu, hựu vân vượng hướng xuất suy phương diệc khả phát, thế cục cát giả cực vậy, như giáp ất bính thủy lai triêu, nhân tôn quải tử bào, lâm quan củng phần tiền, nhân tôn tố cao quan, dần ngọ tuất niên, hợi mão mùi điều động, tài đinh tịnh bị tứ hải liên, đại địa xuất công khanh, tiểu huyệt vượng nhân đinh, như thủy kiêm dậu giả, ất bính giao sơ niên phú quý, thập nhị niên hậu đại nan đương, thọ như nhan tý tam thập tử, tài đinh nhật nhật kiến tiêu vong, tắc thứ hồ kì bất soa vậy.


Thủy khẩu xuất tân phương cát: tả thủy đảo hữu, thủy khẩu xuất tân, mộ vị là chánh khố nhi khứ, hợp cục tối cát, tốn thủy lai thị lâm quan, hào vi ngũ quỷ vận tài nhập tinh, là hệ cứu bần hoàng tuyền, đại địa xuất công khanh, tiểu huyệt vượng tài đinh, bính dần mậu dần 、mậu ngọ niên sanh nhân, khoa giáp liên đăng. Dần ngọ niên đáo, tài đinh quý tam giả tịnh bị, thế hệ long chân huyệt đích, tắc thứ hồ bất soa thị vậy.


Thủy khẩu xuất kiền phương cát: tả thủy đảo hữu, thủy khẩu xuất kiền tuyệt vị hợp cục, cấn tốn nhị thủy lai thượng đường, là quý nhân chi sanh khí thủy tối cát chi cục, tam cát chi thủy chiếu đường tiền, nhân tôn thế đại học tiền hiền, quý cấn nhị thủy hợp bính tốn, trường thứ khoa giáp danh liên miên;tài đinh lưỡng vượng, quý chí nhất phẩm đạt điện tiền, thượng cát chi cục.


Thủy khẩu xuất hợi phương hung: tả thủy đảo hữu, thủy xuất hợi, lưu phá tọa sơn chi lộc vị, thư vân: thực lộc lưu tẫn tất tuyệt lương, hợp thất bại phôi xuất tha hương, hựu phạm bạch hổ hoàng tuyền thủy, tao hình phạm pháp sung quân tội, nam nữ thổ huyết tử thê phòng, hợi mão mùi niên ứng hung.


Thủy khẩu xuất nhâm phương ngôn: tả thủy đảo hữu thủy khẩu xuất nhâm hợp cục, vượng hướng thai lưu nãi đảo kì long cát cách, huyền vũ cương thân yếu huyệt hậu viên mãn, hựu tốn tị ngọ phong chiếu, hựu phiên nghịch khiết giả, đại địa xuất công khanh, tiểu địa vượng tài đinh;dần ngọ tuất niên ứng chi.


Thủy khẩu xuất tý phương hung: tả thủy đảo hữu, lưu phá thai thần đại hung, thư vân, vị thoát nương thai tiên yêu chiết, tạp niên hậu tất tuyệt diệt. hựu vân dâm tình tặc án sung quân phạm, toàn gia đại bại tán tây đông, thủy tử sanh li dâm phụ xuất, lục chỉ đào hoa mãn địa hồng, li hương mại tử, chủ bần cùng, tức thế cục vậy, thiên chi vi lương, vật trí vi hại vậy.


Thủy khẩu xuất quý phương hung: hữu thủy đảo tả, thủy xuất quý, lưu phá dưỡng vị, phá cục tương khắc thả phá long gia suy vị, thư vân: sửu mão nhập thất, tụ hồ, thất nữ tùy khách tẩu lộ đồ, hựu vân, mão thủy lai phạm quân tặc, hoang dâm tư tình, bệnh thương vong, tị dậu sửu niên ứng hung, tốc cải tốn hướng vi lương, phú thả quý yên hữu danh truyền.


Thủy khẩu xuất sửu phương hung: hữu thủy đảo tả thủy xuất sửu, lưu phá địa chi dưỡng vị, hựu phạm tứ mộ hoàng tuyền, trưởng tử tất nhiên tiên bại tuyệt, hậu chí các phòng tổn điền viên, lưu phá long gia sanh khí, thủy kinh vân, dần ngọ tuất gia sát hội, nhất môn hung họa chủ dược vong, nhị thập niên ứng hung.

Thủy khẩu xuất giáp phương cát: hữu thủy đảo tả, thủy khẩu xuất giáp biến kim cục, phản mộc hướng thai lưu, bất khả kiêm dần mão nhất phân, xuất khẩu thảng vô tất đương đại bại, tu nghi tường tế biện chi, bất trí hữu ngộ, thả thị long chân huyệt đích, gia tất tự xương, vượng đinh tài, hựu đắc tốn canh phong thủy chiếu, tất sản văn hậu bộ thiên thai, tị dậu sửu, dần ngọ tuất niên, ứng chi khoa giáp khôi nguyên.

Thủy khẩu xuất mão phương hung: hữu thủy đảo tả, thủy xuất mão, lưu phá địa chi mộc dục tối lại hại chi bại cực, thư vân, mui cung thủy lai phạm cương, thứ tử thổ huyết dâm loạn vong, nội loạn ngoại dâm tham luyến tử, tam tứ kì niên bại, luy tao kỉ chi hậu bất cải, lương điền vạn khoảnh tề hưu, lâu tất tuyệt vậy.


(Thủy pháp nêu trên chỉ thuộc cục (tọa nhâm hướng bính) đoán cát hung, có tất cả 48 cục nói về Cửu tinh Thủy Pháp Huyền không phi tinh) 

Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013

Thủy pháp Ai tinh bí quyết chân truyền

Ai tinh bí quyết chân truyền

Đây là ai tinh bí quyết ứng dụng huyền không của gia truyền nay công bố ra, được bởi Dương Quân Tùng tiên sư sở truyền thụ đích ai tinh bí quyết, khởi đầu câu thu lục ở 《 Thanh nang áo ngữ 》 nội:
Khôn nhâm ất cự môn tòng đầu xuất.
Cấn bính tân vị vị thị phá quân.
Tốn thìn hợi họa thị vũ khúc vị.
Giáp quý thân tham lang nhất lộ hành.
Thế này đoạn câu ngữ trải qua về sau rất nhiều phái tranh nghị, mà hiện tại rất làm thịnh hành đích 《 Thẩm họ huyền không học 》 nguyên nhân sao tinh bàn tổ hợp thiếu, mà không thể tự viên ngoài thuyết, liền đem thế này câu sửa làm cái gọi là kiêm hướng khẩu quyết, còn thuyết thành do Tưởng đại hồng truyền thụ khương nhữ cao.
Kinh nghiệm chứng cớ sau, phát hiện do kiêm hướng khởi xuất đích phi tinh vận bàn thực khó có thể chân chính đoán ra trạch nội sự tình, có được nhiều là xuyên tạc phụ hội, dùng nhiều hạt phi tinh ngạnh nhấc lên thực so sánh.
Bởi vậy có thể thấy, đọc này tất nên phải cẩn thận vận dụng 《 Thẩm họ huyền không học 》nội ghi chép đích phương pháp, lấy trung tâm lập của biện chính phương pháp liền có phát hiện ngoài phá lậu đầy rẫy đích rõ hiện tượng.
Phụ lục 《 Thẩm họ huyền không học 》 của ai tinh kiêm hướng khẩu quyết các cung vị chứng minh:
〈 xuy ngao tử giản dịch ai tinh khẩu quyết 〉
Tý quý giáp thân tham lang tầm; Khôn nhâm ất mão mùi cự môn.
Kiền tốn lục vị đều vũ khúc; Cấn bính tân dậu sửu phá quân.
Nếu tra dần ngọ canh đinh thượng; Một luật hoán lại là bật tinh.
〈 Tưởng đại hồng truyền thụ khương nhữ nghiệt khẩu quyết 〉
Tý quý tịnh giáp thân, tham lang nhất lộ hành.
Nhâm mão ất mùi khôn, ngũ vị thị cự môn.
Kiền hợi thìn tốn tị, tốc thành vũ khúc danh.
Dậu tân sửu cấn bính, thiên tinh thuyết phá quân.
Dần ngọ canh đinh thượng, hữu bật tứ tinh lâm.
Trải qua về sau rất nhiều khổ tâm toàn nghiên đích phong thủy nghiên cứu này, như không được minh sư khẩu truyền tâm truyền thụ, đều rơi vào chỉ biết ngoài đạo lý, khước sấm không tiến chân chính ứng dụng đích môn hạm.
Ngoài khẩu quyết thừa ra lấy hai mươi bốn sơn làm bao trang thức, chỉ thực tế lấy sáu mươi tứ quái làm dùng, nếu không rõ thế này điểm, rất dễ dàng lại ngã tiến cửu cung phi tinh cùng Thẩm họ huyền không học đích khoanh tròn.

Ngoài ra khẩu quyết này với huyền không đại quái lại áp dụng phân đại môn xéo(thế quái) để tiếp nhận được cát khí như đồ hình 48 sau. Bằng áp dụng khẩu quyết ai tinh trên, qua nạp giáp định lai khứ thủy (thủy pháp) để kích hoạt ai tinh bí quyết ……

Chúng ta cứ nghĩ xem một khẩu quyết quý như thế này mà Thẩm họ huyền không học chỉ đem áp dụng trên la kinh phân thế quái cho các trường hợp gần biên phân chia 24 sơn trên la kinh, vì Thẩm họ không được chân truyền cách ứng dụng phân thế quái khẩu quyết Ai tinh bí quyết bởi Dương quân Tùng. Một khẩu quyết như vậy mà chỉ áp dụng đơn thuần một số trường hợp như Thẩm họ, thuyết nghĩ nó phải áp dụng được trong mọi trường hợp mới xứng với cái danh Dương cứu bần.

Chú ý: về nạp giáp thuộc biến hào thủy pháp.

Không phải cách nạp giáp này: (Càn nạp Nhâm Giáp, Khôn nạp Quý Ất, Chấn nạp Canh, Tốn nạp Tân, Khảm nạp Mậu, Li nạp Kỷ, Cấn nạp Bính, Đoài nạp Đinh, dương can nạp dương quái, âm can nạp âm quái.)

Hình ứng dụng thủy pháp của ai tinh bí quyết ...

Hình bình thường

(Cả hai hình cùng chung khu đất)  

Huyền không phi tinh Tiên thiên Long-Thuỷ Ai tinh pháp
Huyền không phi tinh Tiên thiên long-thuỷ Ai tinh pháp

Trước khi viết Nam Phong đã cân nhắc nhiều lần vì nó chạm đến gốc rễ của Huyền không phi tinh mà mọi người vẫn biết và vẫn dùng. Tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật và vì mong muốn các bạn có cơ duyên sẽ có một cách nhìn khác với Huyền không phi tinh và có thể tiếp cận với mức thượng thừa của Phi tinh nên quyết định viết bài này. Bài này chỉ là một phần của Huyền không phi tinh Tiên thiên pháp nhưng nó cho thấy sự lợi hại của Tiên-Hậu thiên phối hợp như thế nào.

Nói về Huyền không phi tinh, phần lớn chỉ biết về Hậu thiên phi tinh, tức là cách bài tinh bàn(an tinh pháp) được một trong các cách cục: vượng sơn vượng hướng, song tinh đáo hướng, song tinh đáo sơn, thượng sơn hạ thuỷ...


Tiên thiên pháp của Huyền không phi tinh được các chân sư giữ gìn rất cẩn mật. Cho đến nay vẫn chỉ rất ít người biết được Tâm pháp này; Nếu bài được vượng sơn vượng hướng(hậu thiên cát) mà không biết được rằng tiên thiên hung thì tạm thời trước mắt cát nhưng chung quy vẫn bại, cái cát đó chỉ là tạm thời chứ không thể dài lâu. Như tiên thiên cát mà hậu thiên hung(bài thượng sơn hạ thuỷ cục) thì trước mắt cục diện này có thể không dùng được nhưng lâu dài vẫn dùng tốt như thường. Âm dương 2 trạch trước hết phải quán xét Tiên thiên ai tinh pháp cát hay hung, sau đó mới dụng hậu thiên ai tinh pháp(bài tinh bàn) hợp dụng. Kinh văn viết: “hữu nhân thức đắc ai tinh học, triều thị phàm phu mộ thị tiên”.


Tưởng Công truyền ai tinh khẩu quyết như sau:

Tý Quý tịnh Giáp Thân,
Tham lang nhất lộ hành.
Nhâm Mão Ất Mùi Khôn,
ngũ vị vi Cự môn .
Càn Hợi Thìn Tốn Tị,
liên Tuất Vũ khúc danh.
Dậu Tân Sửu Cấn Bính,
thiên tinh thuyết Phá quân.
Dần Ngọ Canh Đinh thượng,
Hữu bật tứ tinh lâm.
bản sơn tinh tác chủ,
phiên hướng trục hào hành.
Liêm trinh quy ngũ vị,
chư tinh thuận nghịch luân.
Cát hung tuỳ thời chuyển,
Tham Phụ bất đồng luận.
canh hữu tiên hiền quyết,
không vị kị lưu thần.
phiên hướng phi lâm Bính,
thuỷ khẩu bất nghi Đinh.
vận thế tinh bất cát,
hoạ khởi chí diệt môn.
vận vượng tinh canh hợp,
bách phúc hựu thiên trinh .
suy vượng đa bằng thuỷ,
quyền hành dã tại tinh.
thuỷ kiêm tinh canh đoán,
diệu dụng hứa thông linh .

Hiện nay đa số mọi người xem Ai tinh quyết này chính là Thế tinh quyết. Do xuất phát từ bút ký của Khương Diêu: “Lúc thầy tôi táng cha ở Dư Diêu không có tiền mua đất, tôi dâng cho thầy 2000 lượng vàng, khi trở về thì thầy giữ lại, truyền cho tôi 28 câu khẩu quyết tý quí và giáp thân. Lúc ấy tôi mới biết “Tý Quý Giáp Thân là sao Tham lang, Nhâm Mão Ất Mùi Khôn là sao Cự môn, Thìn Tuất Kiền Hợi Tốn Tị là sao Vũ, Dậu Tân Sửu Cấn Bính là sao Phá quân, Ngọ Đinh Dần Canh là sao Hữu bật. Thầy tôi trang nghiêm khuyến cáo: “Bí quyết trong sách này là điều bí mật nhất trong những điều bí mật, một khi con đã biết thì nên thận trọng chớ có tiết lộ cho ai”. Sau khi tôi được khẩu quyết mới mang ra chú giải Thanh nang áo ngữ.”. Từ bút ký này và những lời giải thích của Khương Diêu nên mọi người xem đây là Thế tinh trong trường hợp kiêm quá 3 độ(với Vô Thường phái) hoặc 4,5 độ(Trung Châu phái).


Nếu chỉ đơn giản là Thế tinh thì nó cũng không quan trọng đến mức Tưởng Đại Hồng phải đinh ninh “
Bí quyết trong sách này là điều bí mật nhất trong những điều bí mật, một khi con đã biết thì nên thận trọng chớ có tiết lộ cho ai”. Vì thật ra thế quái đâu quan trọng bằng Hạ quái hay Thành môn mà Tưởng Công cần giữ bí mật đến như vậy? Lời của Tưởng Công thực sự có ẩn ý, tiếc rằng Khương Diêu không hiểu thấu, nếu chỉ là thế quái thì Tưởng Công chỉ cần nói ra 13 sơn thế, 11 sơn còn lại không thế thì đâu cần nói chi? vả lại còn nguyên một phần sau của ca quyết hoàn toàn không được giải thích là dùng để làm gì. Tưởng Công giữ gần một đời ca quyết này chẳng lẽ những câu cuối chỉ để có cho vui? Tưởng Công nói “Thế” tức Tiên thiên thế Hậu thiên mà định cát hung chứ không phải thế tinh.
Chân sư Huyền không phi tinh mấy trăm năm nay không ai cải chính những điều này. Bút ký của Khương Diêu và Thẩm thị huyền không học là công thần hay tội nhân phong thuỷ?
Tiên thiên Long-Thuỷ Ai tinh pháp phân biệt rõ Lai long và Thuỷ khẩu ở tại từng cung vị, y ai tinh quyết án dương thuận âm nghịch phép tắc mà bài. Ai tinh lưu hành theo vòng chu thiên, Liêm trinh(sao 5) nhập trung. Xem tứ cát tứ hung lâm tại cung vị nào, thẩm nhập huyệt tinh là vượng hay suy, hợp lại mà dùng.



Lấy một ví dụ cho rõ:

Lai long đến từ Hợi, thuỷ khẩu ở Mão Ất phương, hạ nguyên lập trạch Quý sơn Đinh hướng:

Lai long hợi, đối chiếu ai tinh quyết Hợi là Vũ khúc, Hợi là quẻ sơ hào của Đoài thuộc dương(xem Huyền không phi tinh định 24 sơn âm dương), thuận hành ai tinh: Càn(tuất càn hợi)-Vũ khúc; Khảm(nhâm tý quý)-Phá quân; Cấn(sửu cấn dần)- Tả phụ; Chấn(giáp mão ất)-Hữu bật; Tốn(thìn tốn tị)-Tham lang; Ly(bính ngọ đinh)-Cự môn; Khôn(mùi khôn thân)-Lộc tồn; Đoài(canh dậu tân)-Văn khúc; Liêm trinh quy trung ngũ(Liêm trinh quy ngũ vị, chư tinh thuận nghịch luân.)


tham-----cự-------lộc

tị--------đinh-----thân

bật------liêm-----văn

ất-------trung-----tân

phụ-----phá-------vũ

dần-----quý-------hợi(lai long)

Quý sơn đắc phá quân đáo toạ trạch. Phá quân thất xích là hạ nguyên đương lệnh chi tinh chủ tốc phát.

Đinh hướng Cự môn, Cự môn nhị hắc là thượng nguyên chính thần, hạ nguyên linh thần; linh thần đến hướng, nếu có thuỷ triều thì hạ nguyên chủ cát, đó là Linh Chính đắc vị(chính thần sơn phi đáo sơn, linh thần thuỷ phi đáo hướng).

Thuỷ khẩu Ất Mão, đối chiếu ai tinh quyết Ất Mão là Cự môn, Ất Mão thuộc trung hào và thượng hào quẻ Cấn nên thuộc âm(xem Huyền không phi tinh 24 sơn âm dương), do đó tại chấn khởi Cự môn nghịch ai, Hữu bật đến đinh hướng.


tham--------bật----------phụ

tị------------đinh---------thân

cự-----------liêm---------phá

ất----------trung---------tân
(thuỷ khẩu)

lộc----------văn----------vũ

dần---------quý----------hợi

Hữu bật cửu tử thuộc hướng thuỷ hạ nguyên chính thần, đương lệnh hợp thời, nên cục thế đại cát tài lộc.

Văn khúc tứ lục đáo toạ sơn, văn khúc là thượng nguyên long, thượng nguyên dùng tốt, hạ nguyên suy.

Đây chính là Tiên thiên Long-Thuỷ Ai tinh pháp “lấy lai long thẩm toạ sơn”, “lấy thuỷ khẩu thẩm hướng” chi pháp, hợp “long hợp hướng, hướng hợp thuỷ” bí chỉ, xác định Long-Hướng-Thuỷ Tam hợp đương dụng.


Thuỷ khẩu ở Mão Ất phương, Mão Ất thuộc Chấn tam bích quái, mà Hợi long tại Càn lục quái, Đinh hướng triều thuỷ thuộc Li cửu tử quái, đây chính là Tam Lục Cửu “Phụ mẫu tam ban quái” chân quyết. Toạ sơn hướng thuỷ lại hợp Khảm Li giao cấu cục, chính là phúc địa vậy.



Đồ hình kết hợp với Bài long quyết và An tinh quyết Quý sơn Đinh hướng vận 7

- 3 số trong vòng tròn định Phụ mẫu tam ban cục
- Ngoài vòng tròn, vòng đầu tiên là phương vị hậu thiên
- Vòng thứ 2 là Tiên thiên Long Ai tinh pháp
- Vòng thứ 3 là Tiên thiên Thuỷ Ai tinh pháp
- Vòng ngoài cùng 3 số là tinh bàn vận 7 Quý sơn Đinh hướng
- Trên cùng ở cung Ly ghi Phá quân long là Bài long pháp, lấy Ất Mão thuỷ khẩu, Phá quân đến hướng.

Phần hợp đoán để dành cho các bạn.




Phép dùng An tinh của Hậu thiên là theo Lường thiên xích Lạc thư, nhưng căn cơ chính là thuận bài “dương trưởng âm tiêu”, nghịch bài “âm trưởng dương tiêu”(xem Huyền không phi tinh Lường thiên xích tường giải).

Phép dùng An tinh của Tiên thiên lại theo chu thiên quái hào, dương một đường, âm một đường, “cửu tinh song khởi thư hùng dị, huyền quan chân diệu xứ”.

“Liêm trinh quy ngũ vị,

chư tinh thuận nghịch luân.”
An đến sao Liêm trinh(ngũ hoàng) thì nhập trung cung, sao Liêm trinh quản trung cung, 8 sao còn lại phân bố 8 cung.

“Cát hung tuỳ thời chuyển,

Tham Phụ bất đồng luận.”
Thượng nguyên Tham Cự Lộc Văn cát, Vũ Phá Phụ Bật hung. Hạ nguyên Vũ Phá Phụ Bật cát, Tham Cự Lộc Văn hung. Nói cát hung tuỳ thời chuyển là như vậy.

“canh hữu tiên hiền quyết,

không vị kị lưu thần.
phiên hướng phi lâm Bính,
thuỷ khẩu bất nghi Đinh.”
Tức là nói thượng nguyên long lại gặp hạ nguyên thuỷ, bất giao bất hợp thì chung cuộc chỉ là hung.

“vận thế tinh bất cát,

hoạ khởi chí diệt môn.
vận vượng tinh canh hợp,
bách phúc hựu thiên trinh.”
Thượng nguyên bài đắc hạ nguyên tinh, hạ nguyên bài đắc thượng nguyên tinh là hoạ diệt môn, ngược lại là hợp nguyên hợp tinh nên là phúc.

“suy vượng đa bằng thuỷ,

quyền hành dã tại tinh.
thuỷ kiêm tinh canh đoán,
diệu dụng hứa thông linh .”
Lưu ý quyết dùng cho vùng Bình nguyên, Bình dương mà không dùng được cho vùng Sơn cốc, nơi có thuỷ mới nghiệm, vô thuỷ không nghiệm.



Các phái khác từng cho Huyền không phi tinh là sai vì chỉ đề cập Hậu thiên mà không có nói gì đến Tiên thiên. Sự thực Huyền không phi tinh như thế nào, đến nay chắc chỉ vài người hiểu mà thôi. Cao thủ phi tinh thực có mấy ai?


Nam Phong. 
Chào anh Lypm,
Phiên âm qua tiếng việt đoạn văn ở trên. Đọc xong ngọng luôn, hong hiêu gì hết

乙 卯 龙 癸 山 丁 向,

Ất mão long quý sơn đinh hướng,
水 出 申 庚, 发 丁 财.
thủy xuất thân canh, phát đinh tài.
坐 癸 向 丁, 周 天17度。
Tọa quý hướng đinh, chu thiên 17 độ.
乙 卯 来 龙, 周 天103 度。
Ất mão lai long, chu thiên 103 độ.
乙 辰 来 水, 周 天108 度。
Ất thìn lai thủy, chu thiên108 độ.
水 口 申 庚, 周 天 245 度。
Thủy khẩu thân canh, chu thiên 245 độ.
水 口 砂 申, 周 天 245 度。
Thủy khẩu sa thân, chu thiên 245 độ.
朝 山 午 丁, 周 天186 度。
Triêu sơn ngọ đinh, chu thiên186 độ.
案 山 丙 午, 周 天170 度。
Án sơn bính ngọ, chu thiên170 độ.
穴 山 艮 寅, 周 天50 度。
Huyệt sơn cấn dần, chu thiên 50 độ.
父 母 山 寅 甲, 周 天65 度。
Phụ mẫu sơn dần giáp, chu thiên 65 độ.
99 年 迁 葬。 下 葬 的 头 天 晚 上, 我 一 个 亲 人 梦 见 下 面 的 河 流 涨 很 大 的 洪 水, 我 就 知 道 这 是 吉 兆, 主 财 运。 坐 癸
向 丁, 周 天17 度, 第 一 张 图 上 有。

99 niên thiên táng. Hạ táng đích đầu thiên vãn thượng, ngã nhất cá thân nhân mộng kiến hạ diện đích hà lưu trướng ngận đại đích hồng thủy, ngã tựu tri đạo giá thị cát triệu, chủ tài vận. Tọa quý hướng đinh, chu thiên 17 độ, đệ nhất trương đồ thượng hữu.
能看到。葬后丁财两旺。
Năng khán đáo. táng hậu đinh tài lưỡng vượng.
更 正: 是1999 年 迁 葬, 墓 碑 上 的 度 数18 度 是 2004 年 用 罗 盘 测 得。 后 用 指 南 针 测 得 度 数 是17 度。17 度 比 较 准
Canh chánh: thị 1999 niên thiên táng, mộ bi thượng đích độ sổ18 độ thị 2004 niên dụng la bàn trắc đắc. Hậu dụng chỉ nam châm trắc đắc độ sổ thị 17 độ.17 độ bỉ giác chuẩn.

这 峦 头 并 不 完 美,缺 点 确 实 不 少。 但 关 键 是 龙 向 配 合 不 犯 煞, 水 口 走 申 庚, 绝 妙!

Giá loan đầu tịnh bất hoàn mĩ, khuyết điểm xác thật bất thiểu. Đãn quan kiện thị long hướng phối hợp bất phạm sát, thủy khẩu tẩu thân canh, tuyệt diệu!
做 这 坟 确 实 是 为 了救 贫, 是 救 贫 黄 泉 ,丁 坤 终 是 万 斯 箱. 从 现 在 看 来, 救 贫 的 目 的 已 经 达 到
Tố giá phần xác thật thị vi liễu cứu bần, thị cứu bần hoàng tuyền, đinh khôn chung thị vạn tư tương.tòng hiện tại khán lai, cứu bần đích mục đích dĩ kinh đạt đáo.

苏 说 的 丁 向 坤 走 水, 砸 墓 碑 的 都 有,这 我 相 信。 但 风 水 不 能 这 么 一 概 而 论。 因 为 还 有 龙 的 不 同, 龙 的 配 合, 假 如 不 是 乙 龙, 而 是 甲 龙, 就 会 有 天 差 地 别! 假 如 不 是 乙 卯 龙, 而 是 乙 辰 龙, 也 有 天 差 地 别!假 如 乙 卯 龙 不 立 丁 未 向, 而 是 立 的 丁 午 向, 也 有 天 差 地 别!

Tô thuyết đích đinh hướng khôn tẩu thủy, tạp mộ bi đích đô hữu, giá ngã tương tín. Đãn phong thủy bất năng giá yêu nhất khái nhi luận. Nhân vi hoàn hữu long đích bất đồng, long đích phối hợp, giả như bất thị ất long, nhi thị giáp long, tựu hội hữu thiên sai địa biệt! Giả như bất thị ất mão long, nhi thị ất thìn long, dã hữu thiên sai địa biệt!Giả như ất mão long bất lập đinh vị hướng, nhi thị lập đích đinh ngọ hướng, dã hữu thiên sai địa biệt!
在 我 坟 旁 边 有 左 右 二 坟, 立 的 丁 午 向 , 皆 不 吉, 一 家 后 人 赌 博 吸 毒。 一 家 后 人 犯 桃 花, 寿 命 不 长。 真 是 赵 连 城 说 的 左 葬 左 绝, 右 葬 右 绝。 也 是 杨 公 说 的, 唯 有 一 坟 能 发 福, 来 山 去 水 尽 合 情。 该 山 葬 十 几 口 坟, 其 它 的 坟 后 人 都 较 贫。
Tại ngã phần bàng biên hữu tả hữu nhị phần, lập đích đinh ngọ hướng, giai bất cát, nhất gia hậu nhân đổ bác hấp độc. Nhất gia hậu nhân phạm đào hoa, thọ mệnh bất trường. Chân thị triệu liên thành thuyết đích tả táng tả tuyệt, hữu táng hữu tuyệt. Dã thị dương công thuyết đích, duy hữu nhất phần năng phát phúc, lai sơn khứ thủy tẫn hợp tình. Cai sơn táng thập kỉ khẩu phần, kì tha đích phần hậu nhân đô giác bần.
 Chào anh TuHepLuong,

Nôm na là như vầy:


Long tới từ ất sơn kiêm mão (103 độ)

Lập quý sơn đinh hướng (17 độ)
Thủy khẩu tại thân kiêm canh 245 độ
Cục này phát đinh lẫn tài .

Tôi thu tập các cục đầy đủ các yếu tố long thủy tọa hướng kết quả để kiểm nghiệm thuyết của NamPhong. 

Tiệm bán cá, tọa ngọ kiêm đinh (181.5 độ) thủy khẩu giáp kiêm mão. Khai trương năm 2005.

Sau khi mở bán được vài tháng đắc khách, sau đó ế dần rồi phải sang cho chủ khác, thay đổi chủ rất nhiều lần ...  

Chào anh Lypm,

Cám ơn anh chỉ điêm. Nhưng tôi lại thắc mắc tại sao Quý sơn Đinh hướng 17 độ mà không phaỉ toạ Đinh hướng Quý? 

Là gì tọa quý 17 độ chớ hong phải hướng quý 17 độ 
1.
Lai long Ất Mão 103 độ phân 2 nhánh: 1 nhánh tả toàn thành án sơn tại Bính Ngọ 170 độ và sơn triều tại Ngọ Đinh 186 độ; 1 nhánh hữu toàn thành đại sơn tại Giáp Dần 65 độ và nhập huyệt sơn tại Dần Cấn 50 độ. Thuỷ đến từ Ất Thìn 108 độ tả toàn xuất thuỷ khẩu tại Thân Canh 245 độ. Đây là lưỡng sơn hiệp nhất thuỷ. Chính vì vậy lai long không thể lấy ở Mão Ất vì nơi đây không thực là lai long do không có sơn khởi đỉnh và lại bị phân hành. Long tại Mão Ất phân hai: tại Giáp Dần và Bính Ngọ, thuỷ theo Bính Ngọ nhưng Bính Ngọ không phải chân long vì sơn đột triều tại Ngọ Đinh, triều về Dần Giáp hộ chân long. Chân long ở tại Dần Giáp vì lai long khởi đỉnh ở Dần Giáp(hậu thiên lai long Chấn quái), nhập huyệt tại Cấn Dần(tiên thiên Chấn quái), đối cung Thân Canh thuỷ khẩu là Kim long(tiên thiên thuỷ khẩu tại Tốn quái). Quẻ Lôi phong, động sơ hào thành Càn Khôn đại dụng(cái đoạn này là nghiệm theo Nguyên không để xem Kim long động hay bất động mà quyết cát hung trước)

Xét Dần Giáp 65 độ ai tinh tại Dần là Hữu bật thuận hành thì Lộc đến Đinh hướng, Phụ đến Quý sơn. Tại Giáp là Tham lang thuận hành thì Lộc đến Đinh hướng, Phụ đến Quý sơn.


Cự--------Lộc----------Văn


Tham----Liêm--------Vũ

(thuỷ khẩu)
Bật-------Phụ---------Phá

Quý sơn đắc Phụ tinh đáo toạ trạch. Phụ tinh bát bạch là hạ nguyên cát tinh, chủ tốc phát.

Đinh hướng Lộc tồn tam bích là thượng nguyên chính thần, hạ nguyên linh thần; linh thần đến hướng, nếu có thuỷ triều thì hạ nguyên chủ cát, đó là Linh Chính đắc vị(chính thần sơn phi đáo sơn, linh thần thuỷ phi đáo hướng). Ở đây thuỷ từ Ất thìn vòng qua Ngọ Đinh và xuất tại Thân Canh và có cả sơn triều tại Ngọ Đinh nên Linh thần thuỷ này thực không đắc vị cho lắm nhưng cũng không phải hung.

Xét thuỷ khẩu tại Thân Canh 245 độ, Ai tinh tại Thân là Tham lang thuận bài thì Văn khúc đến Quý sơn, Hữu bật đến Đinh hướng. Ai tinh tại Canh là Hữu bật thuận bài thì Cự môn đến Quý sơn, Phá quân đến Đinh hướng.

Phá quân thất xích, Hữu bật cửu tử thuộc hướng thuỷ hạ nguyên chính thần, đương lệnh hợp thời, nên cục thế đại cát tài lộc.

Bài long lấy Thân làm chủ thì Cự môn long đến hướng, lấy Canh làm chủ thì Liêm trinh đến hướng, tuy Liêm trinh hung nhưng vận 7, 8 đều là Cự môn chủ chính nên Liêm trinh sinh cho Cự môn mà hoá cát, vận 9 hung.


An tinh bàn Quý sơn Đinh hướng vận 7

461----826----648

559----372----194


915----737----283


Thuỷ khẩu tại Thân đắc hướng tinh 8, sơn triều tại Ngọ Đinh đắc sơn tinh 8.

Cục này phát mạnh trong vận 7 kéo dài đến hết vận 8 mới thôi. Con gái học cực giỏi, con trai bình thường.

Hơi tiếc một điều là táng trong vận 7, nếu táng trong vận 8 song tinh 8 đáo hướng, hướng tinh 8 tại Ly, hướng tinh 6 tại Khôn, hướng tinh 1 tại Dậu toàn thu thuỷ.
Vận 8 sơn Cấn 8, thuỷ khẩu Khôn 2, lập chính cục Khảm Ly Quý sơn Đinh hướng 20 độ Càn Khôn đại dụng thì có thể thành Tam nguyên bất bại đại cục.


2.

Tiệm bán cá, tọa ngọ kiêm đinh (181.5 độ) thủy khẩu giáp kiêm mão. Khai trương năm 2005.

Thuỷ khẩu tại Giáp khởi Tham lang thuận bài:

Cự--------Lộc-----Văn

Tham----Liêm----Vũ


Bật-------Phụ-----Phá

Thuỷ khẩu tại Mão khởi Cự môn nghịch bài:
Tham--Bật-----Phụ

Cự------Liêm---Phá


Lộc-----Văn----Vũ


Âm dương bất đồng, cát hung lẫn lộn. Nhà này phải có cửa sau để hỗ trợ khí cho cửa trước. Cửa chính ở trước phải mở thật lớn, càng lớn càng tốt và ở giữa. Nếu mở một bên hay nhỏ thì không thể thu sơn xuất sát, đại bại tài lộc, 2 sao tại toạ vốn không hung(Lộc, Bật) nên bại tài mà không hại người.


2 Cục này 1 âm trạch, 1 dương trạch, có nhiều điểm tương đồng nhưng xét kỹ lại thì thuỷ khác rất nhiều nên vượng suy khác nhau và do hợp phép thu sơn xuất sát hay không(không phải thu sơn xuất sát của Thẩm thị huyền không mà là của Trung Châu huyền không), cái này thì lại khó kiểm chứng được. Phần luận trên đây cũng là dựa theo mô tả, khi gặp trực tiếp đôi khi có những điều tưởng nhỏ nhặt mà lại hoá ra thay đổi toàn bộ cục diện, nhất là trong âm trạch.




P/S: anh Lypm, Nam Phong không học về trận pháp vì biết mình không tiếp nhận nổi kiến thức Kỳ môn(Kỳ môn này là Âm phù kinh chứ không phải Kỳ môn độn giáp mọi người hay nói) nên không giúp gì anh được.

Phần ví dụ 1 Nam Phong đã kiểm chứng lại với thuyết Nguyên không cũng phù hợp như vậy, cảm ơn anh Lypm đã cho một ví dụ rất cụ thể.  
lão tà
Tôi vào chỉ thấy chử không thấy hình, topic lại bị khóa cho nên reply hong được. Về ví dụ một hình như anh cho là nhánh long thứ hai là từ dần cấn chắc là vi thủy khẩu tại thân ? Nếu là vậy thì tôi nghĩ một số sách nói lai long đối với thủy khẩu là cách nhìn thiển cận quá, vì không phải lúc nào cũng vậy (Trung Châu là một trong những người nghĩ như vậy). Còn nếu vì lấy huyệt sơn dần cấn 50 độ thì tôi nghĩ không chính xác tại vì người đưa lên không phải là tay bình thường tất nhiên phân biệt được sự khác biệt giữa lai long và sơn đầu, hai cái này vốn khác nhau.

Cục thứ hai thì không phải ví dụ tốt tại vì thủy khẩu không có độ số, theo cách viết của người này thì kiêm một độ cũng gọi là kiêm cho nên có thể toàn là giáp cũng có thể giáp kiêm mão. (Tôi lại thắc mắc sao lại nói lộc bật mà hong nói phụ văn ? không phải dụng long sát tọa, dụng thủy sát hướng à ?) 
Mạn phép bổ sung hình về vụ tiệm bán cá để các bạn dễ nhìn:

[IMG]


[IMG]


[IMG]


[IMG]


[IMG]
 
 
 Cảm ơn bạn mommom đã bổ sung hình. Tiệm bán cá này độ số rất tốt, thuỷ khẩu tại Mão cũng hay. Bạn đưa hình lên cái cửa chính ở phương Sửu(hình cuối), bài trên NP có viết Cửa chính ở trước phải mở thật lớn, càng lớn càng tốt và ở giữa. Nếu mở một bên hay nhỏ thì không thể thu sơn xuất sát, đại bại tài lộc, 2 sao tại toạ vốn không hung(Lộc, Bật) nên bại tài mà không hại người.

anh Lypm: cục thế thứ nhất không phải vì thuỷ khẩu tại Thân mà NP nói lai long ở Cấn Dần, nếu nói như vậy thì chẳng hiểu gì về Long Thuỷ cả. NP nói lai long ở Cấn Dần do thấy thế thuỷ thuận hành, sơn nghịch hành đúng thư hùng giao cấu trước khi hình thành huyệt tinh. Nếu Lai long thực sự tại Mão Ất thì với cục diện này vận 7 lập huyệt toạ Thân hướng Dần 63độ, đầu gối lên nước, mắt nhìn núi cao, hồi phong chuyển khí, kiêm thâu sinh vượng cả hạ nguyên. Con cháu tài lộc-quyền uy một xứ. Nếu người lập huyệt là cao thủ thực sự mà lai long Mão Ất lại lập Quý Đinh chỉ có 1 trong 2 lý do(hoặc người đưa cục thế này lên là cao thủ và đã cảm thấy không bình thường):


1. Thuỷ khẩu tại Thân Canh rất đặt biệt.


2. Người lập huyệt hiểu được phúc nhà này không thể đương nổi cục thế nên không nhận đại cục ở Cấn-Trung-Khôn(258) mà chỉ thu tiểu cục ở Khảm-Tốn-Đoài(147), giảm đi 7 phần, chỉ cho nhận 3 để bình an cho nhân đinh.


Tuy nhiên đây cũng chỉ là ước đoán mà thôi, nếu có điều kiện xem ảnh cục diện thì mới có thể biết chính xác hơn. 

lão tà
NamPhong:
Trích:
2 sao tại toạ vốn không hung(Lộc, Bật) nên bại tài mà không hại người.
Câu này làm tôi thắc mắc các trường hợp sau.

Theo như cách lập long bàn và thủy bàn thì thủy chung mỗi bàn chỉ có hai cách cục, đó là tọa vượng thì hướng suy và hướng vượng thì tọa suy. Không thể có cả hai tọa hướng đều vượng hay đều suy. Vượng là nói tinh vào nguyên, suy là nói tinh thoát nguyên. Nếu nói về long bàn thì tọa vượng hướng suy là tốt, ngược lại là xấu; nếu nói về thủy bàn thì hướng vượng tọa suy là tốt, ngược lại là xấu.

Vậy có các trường hợp sau đây thì phải luận làm sao:
1. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy.
2. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng
3. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng
4. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy 

Gió Nam đáp
1. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy. Tương đương cùng vượng sơn vượng hướng, nhưng chia nhiều mức vượng hơn.

2. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng. Tương đương thượng sơn hạ thuỷ, nhưng chia nhiều mức suy hơn.


3. Lai long lập bàn tạo ra tọa vượng hướng suy; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng suy tọa vượng. Tương đương song tinh đáo toạ, nhưng chia nhiều mức hơn, muốn hướng vượng thì tìm sao thuỷ bàn hợp hà đồ số với sao thuỷ tại toạ mà thôi thuỷ.


4. Lai long lập bàn tạo ra tọa suy hướng vượng; gặp thủy khẩu lập bàn tạo ra hướng vượng tọa suy. Tương đương song tinh đáo hướng, nhưng chia nhiều mức hơn, muốn toạ vượng thì dùng bổ long phù sơn theo ngũ hành.


Long Thuỷ pháp này NP đang kiểm nghiệm và đối chiếu với các phép khác, cần nhiều thời gian hơn mới có kết luận. 

Chào các bác
Theo tôi hiểu thì đã có thuỷ khẩu ắt phải có long, có long ắt có thuỷ khẩu. Các cụ xưa có hai cách để xác định là theo long hành để tìm thuỷ khẩu, còn miền bình dương thì long tàng ẩn nên dựa vào thuỷ khẩu để biết long, việc này trên thực tế rất khó xác định , chỉ những ai có kinh nghiệm mới tinh mắt thấy được, nhất là thời nay long thuỷ đã biến dạng, bị con người vô tình hay cố ý phá hoại.
Còn khi đã xác định được rồi tức là phải biết vị trí đich huyệt ở đâu ( việc này đã biết được thuỷ khẩu đương nhiên là phải đứng từ huyệt đo ra )
còn để lập hướng tôi vẫn thích dùng theo tam hợp , điển hình của Cụ Tả Ao . 

Chào Diennien,

Chính xác là không có thủy khẩu thì không có Long mạch kết! Đây là nói Thành Môn thủy khẩu hay thủy khẩu của Long hữu hình.


Kim long Thủy khẩu thì lại là thủy khẩu của long vô hình, Thủy khẩu này xác định dựa vào Kim Long. Kim long biến theo vận do vậy Kim long thủy khẩu cũng biến theo vận. Kim long là nơi chí dương ứng với quẻ Càn là nghĩa Linh chính của nguyên vận. Dịch nói “cùng tất biến” do vậy chí dương chợt biến sinh âm chính là Kim long thủy khẩu. “Biến” thì có trên dưới, trái phải…


Hai nghĩa thủy khẩu này cũng không thoát được cái lý Thư Hùng của Dương Công!


Kinh nghiệm cho thấy hầu hết các cuộc đất tốt Thành môn thủy khẩu “Trùng” với Kim long thủy khẩu và tương ứng lạ kỳ. Trước lúc nước ra khỏi thủy khẩu dù có chảy mạnh thế nào cùng “dừng” tại đây rồi mới giao thoa với dòng nước khác, len lỏi qua Bắc thần, Hoa biểu, Cầm tinh, La tinh … mà đi. Chỗ dừng này bao giờ cũng tương ứng với Minh đường, Án, Triều… ( Chu tước Phát nguyên sinh vượng khí). Những cuộc đất này chỉ chờ thời Kim long tới là vượng phát, tất nhiên đây chỉ nói sơ lược thôi…


Trên đây là kinh nghiệm của ASVN rút ra từ việc quan sát thực tế ứng nghiệm.