Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

Phép đóan các sự việc trong năm theo Cửu Tinh

Phép đóan các sự việc trong năm theo Cửu Tinh Phép đóan các sự việc trong năm theo Cửu Tinh
Nhất bạch di chuyển tới hướng Khảm - có câu “Nhất bạch vi quan tinh tri ứng, chủ tể văn chương” có nghĩa là sao Nhất bạch là sao quan, chủ có điều vui trong văn chương, học hành thông minh, thuận lợi trong văn nghiệp .
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Khôn - Chủ là nữ giới nắm bắt quyền hành, người trong nhà dễ mắc về đường ruột và dạ dày.
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Chấn - gia chủ phải chuyển nhà hoặc đi xa, tính tình tương đối thô bạo, ngang ngược.
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Tốn - Chủ có danh tiếng được nhiều người biết tới nhờ vào phát minh sáng chế.
Nhất Bạch di chuyển đến cung giữa - Gia chủ bị thương hoặc bị bệnh.
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Càn - Gia chủ thông minh tài trí, phát tài, gia đình làm ăn buôn bán nhỏ.
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Đoài – Không khí gia đình vui vẻ huyên náo vì có chuyện lạ. Đương vận của Nhất Bạch là vận hoa đào, thất vận là kiếp đào hoa.
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Cấn - Tài vận đều thịnh vượng, đặc biệt có nhiều ruộng đất, nhà cửa có chức có quyền.
Nhất Bạch di chuyển đến hướng Ly - Thuỷ hoả tương giao, gia chủ vui vẻ, gia đình cát khánh.

Phép đoán sự việc trong năm khi sao Nhị Hắc di chuyển đến 8 hướng.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Khảm - Những người trong nhà dễ mắc bệnh đường ruột và dạ dày, người phụ nữ nắm giữ chức quyền tài chính.
Nhị Hắc di chuyển tới hướng Khôn - Nhị Hắc chính là điềm báo về bệnh tật cơ thể của chủ mắc nhiều bệnh.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Chấn - Gia chủ gặp hoạ do những chuyện thị phi gây nên, bệnh tật liên miên như đau chân, bệnh về đường ruột.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Tốn - Gia chủ sức khoẻ kém, mắc các bệnh về đường hô hấp.
Nhị Hắc di chyển đến cung giữa - Gia chủ gặp họa, tai nạn chảy máu, mắc bệnh mãn tính.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Càn - Thất vận thì tinh thần suy sụp, hoảng loạn. Đương vận thì cát tài hưng vượng.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Đoài - hay đau ở vùng bụng, đề phòng hoả hoạn, tai nạn chảy máu.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Cấn - phát tài hưng vượng, đặc biệt là về nhà cửa đất đai sinh lợi.
Nhị Hắc di chuyển đến hướng Ly - Con cháu trong nhà mắc bệnh tâm thần, gặp hoạ chết người.
Phép đoán sự việc trong năm khi sao Tam Bích di chuyển đến 8 hướng
Tam Bích di chuyển đến hướng Khảm - Chủ tính khí thô bạo, ngang ngược, người thân bỏ đi hoặc đi xa.
Tam Bích di chuyển đến hướng Khôn - Gặp hoạ chốn quan trường, mắc các bệnh đường ruột, dạ dày và đau chân.
Tam Bích di chuyển đến hướng Chấn – Tam bích là suy vưu, gặp hoạ chốn quan trường do những chuyện thị phi tranh chấp gây ra.
Tam Bích di chuyển đến hướng Tốn - Khí vận thay đổi liên tục, lúc thịnh lúc suy.
Tam Bích đi chuyển đến cung giữa - Trong  phúc có hoạ, bị thương ở chân.
Tam Bích di chuyển đến hướng Càn - Có câu “Túc di kim nhi bàn san” là để chỉ gia chủ bị thương ở chân. Người trong nhà dễ nảy sinh tranh chấp kiện tụng.
Tam Bích di chuyển đến hướng Đoài - Gặp hoạ diệt vong, rước hoạ vào thân do giúp đỡ người khác.
Tam Bích di chuyển đến hướng Cấn - Bất lợi cho trẻ nhỏ.
Tam Bích di chuyển đến hướng Ly - Gia chủ thông minh tháo vát nhanh nhẹn.
Phép đoán sự việc trong năm khi sao Tứ Lục di chuyển 8 hướng.
Tứ Lục di chuyển tới hướng Khảm – Cung Khảm là cung sao Nhất Bạch làm chủ, do đó hướng này có lợi cho nghiệp học, con cháu đỗ đạt có chức tước.
Tứ Lục di chuyển đến hướng Khôn - hay mắc các bệnh về đường ruột, bị những chuyện thị phi gây phiền hà mà sinh lo lắng đau thương.
Tứ Lục di chuyển đến hướng Chấn, vận khí thay đổi thất thường lục thịnh lúc suy, tinh thần không ổn định.
Tứ Lục di chuyển đến hướng Tốn - gia chủ thông minh nhanh nhẹn.
Tứ Lục di chuyển đến cung giữa - liên tục mắc các bệnh ngoài da, bệnh phong thấp.
Tứ Lục di chuyển đến hướng Càn - Bất lợi cho gia chủ, người thân đi xa hoặc chuyển nhà đi chỗ khác.
Tứ Lục di chuyển đến hướng Đoài - dễ bị thương do kim loại gây ra, dễ sinh chuyện đào hoa ong bướm.
Tứ Lục di chuyển đến hướng Cấn - không có lợi cho trẻ sơ sinh, mắc nhiều bệnh tật hoặc thành tích học tập giảm sút, dễ mắc bệnh về mũi .
Tứ Lục di chuyển đến hướng Ly - học hành thông minh, có chức quyền, gia đình hoà thuận ạnh phúc. Thất vận thì hao tốn tiền bạc.
Phán đoán sự việc trong năm khi sao Ngũ hành di chuyển đến 8 hướng.
Ngũ hành di chuyển đến hướng Khảm – gia chủ bi thương bệnh tật, đề phòng những bệnh về đường tiết niệu. Nữ giới đề phòng mắc bệnh phụ khoa
Ngũ hành di chuyển đến hướng Khôn – hay mắc bệnh cấp tính, gặp hoạ diệt vong.
Ngũ hành đi chuyển đến hướng Chấn - dễ bị thương ở chân, đề phòng trong phú có hoạ.
Ngũ hành di chuyển đến hướng Tốn - gặp nhiều tai hoạ rủi ro như bệnh ngoài da, bệnh lở loét do nhiễm độc.
Ngũ hành di chuyển đến cung giữa - gặp hoạ diệt vong, hay mắc bệnh ngoài da do truyền nhiễm.
Ngũ hành di chuyển đến hướng Càn - có bệnh về não, đề phòng đi xa gặp nhiều khó khăn trở ngại, cơ thể mắc nhiều bệnh.
Ngũ hành di chuyển đến hướng Đoài - gặp hoạ chốn quan trường, dễ bị chuyện thị phi gây phiền hà, dễ bị thương do kim lọa gây ra.
Ngũ hành di chuyển đến hướng Cấn - hay mắc bệnh về đường ruột và dạ dầy, vận khí gặp nhiều trắc trở.
Ngũ hành di chuyển đến hướng Ly - Mắc bệnh về mắt, gặp hoạ chết người.
Phán đoán sự việc trong năm khi sao Lục Bạch di chuyển đến 8 hướng.
Lục bạch di chuyển đến hướng Khảm - thồn minh tài trí, phát tài nhờ vào việc buôn bán nhỏ.
Lục Bạch di chuyển vào hướng Khôn - tư tưởng lệch lạc, tinh thần suy sụp. Đương vận thì phát tài hưng thịnh.
Lục Bạch di chuyển đến hướng Chấn - hay bị đau chân, đề phòng tiểu nhân.
Lục Bạch di chuyển đến hướng Tốn - Nữ gặp hoạ, làm ăn vất vả, bôn ba khắp nơi.
Lục Bạch di chuyển đến cung giữa - Đề phòng đi xa gặp nhiều trắc trở, hay đau chân.
Lục Bạch di chuyển đến hướng Càn - có xu hướng chuyển nhà, có lúc đi xa.
Thất vận thì chủ gặp hoạ trên chốn quan trường, đề phòng những chuyện thị phi, hay tai nạn giao thông.
Lục Bạch di chuyển đến hướng Đoài - đề phòng bị thương do kim loại gây ra.
Lục Bạch di chuyển đến hướng Cấn - Phát tài nhờ buôn bán nhỏ, có thêm ruộng đất, tiền của dồi dào, nghề nghiệp liên quan tới kim loại.
Lục Bạch di chuyển tới hướng Ly - Con cái dễ mâu thuẫn với cha mẹ, đề phòng nhiễm các bệnh về đường hô hấp.
Thất Xích di chuyển đến hướng Khảm - Gia cảnh huyên náo, hoà hợp, gặp vận đào hoa.
Thất Xích di chuyển đến hướng Khôn - Tai nạn liên miên, đề phòng hoả hoạn, hoạ chết người, đề phòng bệnh tật.
Thất Xích di chuyển đến hướng Chấn - gặp hoạ chết người, rước hoạ vào thân khi giúp đỡ người khác. Thất vận thì phá sản nhưng được hoá giải nhờ bạn bè giúp đỡ.
Thất Xích di chuyển đến hướng Tốn - Dễ bị thương do kim loại gây ra, dễ gặp kiếp đào hoa.
Thất Xích đi chuyển đến cung giữa - Gặp hoạ trên trốn quan trường do những chuyện thị phi gây ra thương tích cho giá chủ. Gặp hoạ bài xích lẫn nhau trên chốn quan trường hay gặp hoạ tai nạn giao thông.
Thất Xích di chuyển đến hướng Đoài - Đương vận thì phát tài hưng thịnh, Thất vận thì gặp họa chết người, bệnh tật.
Thất Xích di chuyển đến hướng Càn - Tiền của dồi dào nhưng rất dễ bị mất mát hao tổn.
Thất Xích di chuyển đến hướng Ly - Đề phòng hoả hoạn, nữ giới trong nhà bất hoà, mâu thuẫn.
Phán đoán sự việc trong năm khi sao Bát Bạch di chuyển đến 8 hướng.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Khảm - Tài vận hưng thịnh, có thêm nhiều của cải vật chất, con đường công danh rộng mở với người cao chứa trọng.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Khôn - Có thêm nhiều ruộng đất, tiền tài, gia đình thịnh vượng, đại cát đại lợi.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Chấn - Bất lợi cho trẻ nhỏ, thành tích giám sát thục lùi.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Tốn - Con cháu mắc nhiều bệnh tật hoặc là thành tích yếu kém,hay bị bệnh ở mũi v.v…
Bát Bạch di chuyển đến cung giữa - Chủ nhà khi khí vận nhiều trắc trở, người thân hay mắc bệnh về đường ruột và dạ dày.
Bát bạch di chuyển đến hướng Càn - Gặp thời thế phát tài, có thêm nhiều ruộng đất, phú quý hoặc là ngành nghề có liên quan đến kim loại.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Đoài - Phát tài nhờ vào vải vóc, lụa là, gia đình cát khánh, nhưng lại dễ bị tán tài.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Cấn - Đương vận thì đại cát đại lợi, gia trạch hưng thịnh, có thêm nhiều ruộng đất, tiền tài. Thất vận thì phá sản, mất tiền mất của.
Bát Bạch di chuyển đến hướng Ly - Gia đình cát khánh có nhiều niềm vui.;
Cửu Tử di chuyển đến hướng Khảm - Tai qua nạn khỏi, gia đình sự nghiệp cát khánh, thuận lợi.
Cửu Tử di chuyển đến hướng Khôn - Con cháu dễ mắc bệnh tâm thần, thành tích của con cái giảm sút.
Cửu Tử di chuyển đến hướng Chấn - Con cháu trong nhà hoặc gia chủ thông minh nhanh nhẹn, học hành giỏi giang.
Cửu Tử di chuyển đến hướng Tốn - Cát lợi, thông minh giỏi giang trong nghiệp học, có chức có quyền nhưng liên quan đến văn chương, gia đình hạnh phúc, có chuyện vui.
Cửu Tử di chuyển đến cung giữa - Gặp hoạ như bệnh tật về mắt, bệnh ngoài da, hoạ chết người. . . bách sự hung.
Cửu Tử di chuyển đến hướng Càn - Dễ nảy sinh tranh chấp kiện tụng giữa con cháu và gia chủ, đề phòng các bệnh về đường hô hấp.
Cửu Tử đi chuyển đến hướng Đoài - Cẩn thận kẻo xảy ra hoả hoạn, nữ giới trong nhà bất hoà, mâu thuẫn.
Cửu Tử di" chuyển đến hướng Cấn - Gia đình cát khánh, gặp nhiều chuyện vui khiến mọi người trong nhà đều vui vẻ như nhà có hỷ sự, hoặc có người đem tiền của đến cho hoặc có tiền của bằng con đường bất chính.
Cửu Tử di chuyển đến hướng Ly - Đương vận cát lợi, chủ về tài vận và sự nghiệp đều thuận buồm xuôi gió. Thất vận thì gia chủ gặp hoả chết người.

Trong ngũ hành song sơn đã phân ra 24 sơn ra làm 12 nhóm sau: Nhâm Tý (Tý), Quý Sửu (Sửu), Cấn Dần (Dần), Giáp Mão (Mão), ất Thìn (Thân), Tốn Tỵ(Tỵ), Bính Ngọ (Ngọ), Đinh Mùi (Mùi), Khảm Thân (Thân), Canh Dậu (Dậu), Tân Tuất (Tuất), Càn Hợi (Hợi) .


Hậu thiên bát quái

Dụng thần Tứ trụ và Phong thủy


Có một vấn đề, và là một thực tế mà Tân Thủy mong được chia sẻ :
Dụng thần của tử bình ứng dụng rất tốt trong các lĩnh vực hoạt động như chọn nghề nghiệp , trang phục, trang sức , năm cát hỷ ...tuy nhiên, khi ứng dụng vào phong thủy, riêng Tôi sau một thời gian thấy không hẳn như vậy.
Phong thủy xét theo cung Phi, ví dụ như Tôi dụng thần là Kim nhưng theo phong thủy mạng là Chấn , nên cách bài trí ngôi nhà phải theo cách lấy Chấn là căn cứ xem xét. Vậy hướng Tây kim là tuyệt mạng ( tất nhiên vẫn có sơn hoan lạc vv..) , mà hướng Nam hỏa vốn kỵ Kim cũng lại là vượng tráng vv..Sau Khi chuyển hướng nhà sang Tây , Tôi thấy có một số vấn đề , chủ yếu về thể lực , tuy không nghiêm trọng nhưng khó chịu.Sau khi chuyển lại hướng theo Phong thủy và bài trí lại một số đồ vật _ có hướng dẫn _ thì các vấn đề gần như biến mất ngay , mặc dù đó là vẫn chưa làm lễ khai quang một linh vật nào.
Thực sự thì giữa Tử vi và Tử bình đã có khác biệt .Nhưng dường như sang Phong thủy học thì sự khác biệt còn lớn hơn ?

Sau một thời gian, thì Tôi có thể khẳng định là việc đặt hướng lại không theo tính chất dụng thần đã có hiệu quả tốt rõ rệt. sức mạnh của phong thủy hẳn là theo một qui luật của riêng môn này .tìm ra cung hưng phúc trong căn nhà cũng như tìm ra dụng thần chăng. Âu cũng là thông tin phần nào hữu dụng với các bạn ghé qua .

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013

Lăng Hoàng gia Gò Công Quê Hương Tôi

Lăng Hoàng gia Gò Công và những bí ẩn lịch sử

Gò Công (Tiền Giang) có các địa danh lịch sử nổi tiếng đó là lăng Hoàng gia, đền thờ Trương Định và ao Trường Đua… Nếu chưa đến hết 3 nơi đó thì coi như chưa biết Gò Công.

Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ (dân gian gọi Từ Dũ), vợ vua Thiệu Trị. Nơi đây lưu truyền huyền thoại Gò Sơn Qui, lưu truyền văn bia kỳ lạ lưu lạc trên 140 năm…
 
Những phù điêu trang trí theo phong cách phương Tây trước mộ ông Phạm Đăng Hưng.
 
Phạm Đăng Hưng - một nhà tư tưởng của triều Nguyễn
 
Lăng Hoàng gia được xây dựng năm 1926, là lăng mộ và đền thờ ông Phạm Đăng Hưng. Ông Phạm Đăng Hưng sinh ra tại Gò Sơn Qui, vào năm 1764 (nay là ấp Lăng Hoàng Gia, xã Long Hưng, TX Gò Công - Tiền Giang). Ông là người thông minh, văn võ song toàn. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, nổi tiếng hiền đức và siêng năng.
 
Ông có 4 người con làm quan to trong triều Nguyễn. Vua Minh Mạng kết thông gia gả công chúa cho con trai ông là Phạm Đăng Thuật và phong chức Phò mã Đô úy. Vua Minh Mạng cũng cưới con gái của ông là Phạm Thị Hằng (sinh năm 1810, tức bà Từ Dũ sau này) cho Hoàng tử Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị.
 
Mùa hạ năm 1825, ông Phạm Đăng Hưng mất, được đưa về Gò Sơn Qui chôn cất. Năm 1849, ông được vua Tự Đức truy phong Đức Quốc công.
 
Theo văn bia truy tặng Đức Quốc công của vua Tự Đức ban, do Phan Thanh Giản soạn, kể lại sự nghiệp của ông có đoạn: “Ông sơ của ông là Phạm Đăng Khoa, là người học rộng có tiếng văn chương thời Lê Anh Tông (1557- 1571). Họ Trịnh ức hiếp vua Lê, gặp lúc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa dựng nghiệp, ông Phạm Đăng Khoa đem cả họ vào theo. Ban đầu ở Ái Tử (Quảng Trị, thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đổi thành Cựu Dinh, Phú Xuân đổi thành Chính Dinh), sau dời vào Phú Xuân (Huế). Ông cố của Phạm Đăng Hưng là Phạm Đăng Tiên được bổ làm Huấn đạo, phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) nhân đó dời nhà vào Mỹ Khê. Ông nội ông là Phạm Đăng Dinh thông thạo nho học và y học, lấy hiệu là Huyền Thông Đạo nhân. Cha ông là Phạm Đăng Long, địa phương gọi ông là Kiến Hòa tiên sinh”.
 
Cũng theo văn bia trên, Phạm Đăng Hưng sinh ra và lớn lên vào lúc Nguyễn Phúc Ánh khởi nghiệp ở đất Gia Định để đánh lại Tây Sơn. Ông thừa hưởng sự giáo dục của hai người thầy đất Nam Bộ là Nguyễn Bảo Trí và Võ Trường Toản. Năm Bính Thìn 1796, ông đỗ Tam trường, được bổ làm lễ sinh ở phủ Gia Định.
 
Sau khi Gia Long lên ngôi, ông được bổ nhiệm làm trường đà (coi thuyền vận tải) từ Nam ra kinh đô Phú Xuân.
 
Cuối đời, ông được thăng lên tới Thượng thư bộ Lễ, coi việc khâm thiên giám. Ông là người giúp vua Gia Long, Minh Mạng nghiên cứu các điển lệ đưa về gần với bản gốc đời Lê, trong lúc hơn trăm năm loạn lạc đã bị sai lệch.
 
Ông là người nghiên cứu Tiên Nho (Khổng Tử, Mạnh Tử), Chân Đức Tú - một học trò xuất sắc của Chu Hy đời Tống để tổng hợp nên một nền Nho học riêng cho triều Nguyễn: kết hợp Tiên Nho với Tống Nho làm nền tảng tư tưởng. Ông là người khởi xướng một số bộ sách có giá trị thời Nguyễn. Ngày 14-6 năm Ất Dậu (tức 29-7-1825), ông mất vì bệnh tại Huế, thọ 60 tuổi.
 
Ông được Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức phong tặng nhiều danh hiệu.
 
Huyền thoại dòng họ Phạm Đăng
 
Dân gian Nam Bộ còn có nhiều câu chuyện truyền miệng về “ông Ba Bị”. Chuyện kể rằng, thời mở đất, dân gian thường thấy một người luôn mang trong mình ba cái bị lớn (giống như bao tải nhưng có quai đeo bên mình). Con nít khóc dỗ không nín người ta thường nói: “Ngủ đi! Ông Ba Bị tới kìa!” Ông Ba Bị đi đến đâu thì con nít sợ lắm. Người lớn thì ngược lại, bởi ông mang đủ loại hạt giống đi phát cho dân và hướng dẫn cách trồng. Nhà nào quá nghèo, ông Ba Bị cho người mang gạo đến giúp.
 
Người Gò Công kể rằng, ông Phạm Đăng Long tức Kiến Hòa tiên sinh, cha ông Phạm Đăng Hưng là người giỏi Nho học, tinh thông phong thủy, địa lý của Lão học, đi nhiều nơi tìm thế đất tốt để định cư, mong con cháu phát tích.
 
Lúc ông đến Gò Rùa (Sơn Qui), thấy thế đất rất đẹp nhưng toàn vùng Gò Công lúc bấy giờ không có chỗ nào đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Qui. Ông quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này.
 
Sau đó, ông sinh ra Phạm Đăng Hưng. Tương truyền trước khi sinh bà Phạm Thị Hằng (Từ Dũ) thì có một vầng trăng chiếu sáng lòa cả Gò Sơn Qui, nên bà ông Đăng Hưng đặt cho bà tên Hằng. Hiện nay, tại lăng Hoàng Gia, phía sau nhà thờ, nơi nền nhà xưa vẫn còn cái giếng cổ, nước trong vắt và ngọt lịm. Trong cuốn sách cổ “Từ Dụ - Hoàng Thái hậu truyện” của soạn giả Nguyễn Liên Phong in năm 1913 có hai câu:
 
Lộ thủy trình tường ngoại
 
Quy khâu trúc phước cơ
 
Tạm dịch là:
 
Nước ngọt điềm lành ngoại
 
Gò Rùa mọc phước cơ
 
Ly kỳ chuyện tấm bia vua Tự Đức ban cho ông ngoại
 
Đến thăm mộ ông Phạm Đăng Hưng, từ ngoài bước vào, du khách sẽ bắt gặp bên trái có một nhà bia. Bên dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam, đã mòn theo thời gian, nhưng thật kỳ lạ: phía trên có hình cây thánh giá màu đen, bên dưới là dòng chữ Pháp ghi “Đây là nơi an nghỉ của Trung úy Barbé”. Nhìn sâu vào trong là một bài văn bia chi chít chữ Hán?
 
Tấm bia lưu lạc 140 năm.
 
Bia đá này do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ 10 (1857) nhằm ca ngợi công đức của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng. Vua Tự Đức sai chở bằng thuyền từ Huế vô Gò Công. Nhưng cái bia đá mất tích một cách bí hiểm. Đến lúc trùng tu lăng Hoàng gia, năm 1899, vua Thành Thái cho dựng nhà bia bên phải (từ ngoài nhìn vào) bằng đá hoa cương. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia Tự Đức ban cho ông ngoại.
 
Chuyện kể rằng, lúc giải tỏa nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (quận 1- TP Hồ Chí Minh) để xây dựng Công viên Lê Văn Tám (khoảng 1983- 1986), người ta thấy còn sót lại một tấm bia đá bỏ chỏng chơ. Có người phát hiện hàng chữ Nho sau hàng chữ Pháp mới báo với Bảo tàng Thành phố. Khi các nhà nghiên cứu giám định mới té ngửa là tấm bia ấy là của vua Tự Đức ban tặng cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng.
 
Trong tác phẩm “Scènes de la vie Annamite” (NXB P.Ollendorff Paris 1884) của 2 tác giả Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện tình éo le của viên Trung úy Barbé với cô gái Bến Nghé tên Thị Ba, người của nghĩa quân Trương Định.
 
Cô gái hẹn Trung úy Barbé ở đồn chùa Khải Tường (nay là Bảo tàng Cách mạng) đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares - Thị Nghè) vào đêm 7/12/1860. Trên đường đi, Barbé đã bị nghĩa quân Trương Định phục kích bất ngờ giết chết. Câu chuyện tình này đời nay được tái hiện trong vở cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ có tên “Nàng Hai Bến Nghé” với diễn xuất tài năng của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu.
 
Liên kết các sự kiện, chính Barbé cướp tấm bia vào năm 1858 về đồn và 2 năm sau y chết, người ta lấy tấm bia ấy làm bia mộ cho y. Đến khi nghĩa trang giải tỏa mới phát hiện ra và năm 1998, Bảo tàng TP Hồ Chí Minh mới tặng lại Khu di tích Lăng Hoàng gia. Đúng 140 năm sau tấm bia mới được đặt đúng vị trí của nó.
 
Lăng mộ hoàng gia, một công trình kiến trúc độc đáo
 
Lăng mộ Hoàng gia được xây dựng từ năm 1826, do ông Phạm Đăng Tá - con trai trưởng của Phạm Đăng Hưng - xây dựng trên phần đất 3.000 m2, ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng.
 
Các nghệ nhân tài hoa bậc nhất chuyên xây dựng lăng tẩm, cung đình từ Huế vào và nghệ nhân địa phương xây dựng nên công trình kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách cung đình. Năm 1849, vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc công, cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình:
 
- Gian chính giữa thờ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng.
 
- Gian tả thờ Phước An hầu Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng.
 
- Gian tả ngoài cùng thờ Khả tự Phạm Đăng Tiên.
 
- Gian hữu thờ Bình thạnh bà Phạm Đăng Danh.
 
Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Đến năm Khải Định 1921, trùng tu một lần nữa.
 
Ngày 2/12/1992, Bộ Văn hóa - Thông tin có quyết định công nhận Khu Lăng mộ Hoàng gia là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
 
Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ không xây theo kiểu “ngưu phanh, mã phục” mà được xây theo kiểu dáng “đỉnh trụ” hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen.
 
Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. “Ngũ đại thành xương - Tường lân ống hiện” (Năm đời danh giá tốt đẹp - Điềm lành kỳ lân hiện ra).
 
Vòng quanh mộ ông Phạm Đăng Hưng có một số phù điêu trang trí như búp sen, cá hóa long… lại mang phong cách điêu khắc phương Tây. Có lẽ ông Vua Khải Định đã có một “tư vấn viên” người phương Tây nào chăng?
 
Về Gò Công thăm lăng Hoàng gia, khám phá ra nhiều điều thú vị. Dĩ nhiên chúng ta cũng chưa thể nào hiểu hết những bí ẩn lịch sử, và chắc còn nhiều điều bí ẩn trên vùng đất Nam Bộ này?