http://www.phongthuyvnn.com/vn/chi-tiet-tin-tuc/153/Chon-huong-nha-theo-tuoi.aspx
http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/20167-lop-hoc-tu-tru-so-cap-va-trung-cap-cho-tat-ca-moi-nguoi/page__st__20
4. Đánh dấu ngày sinh là Quí và nhớ đây không nói gì đến "mạng Thủy" cả, mà can ngày Quí chỉ gọi Âm Thủy.
5. Nhận định về Quí Thủy là tiền đề quan trọng trước nhất, chưa cần tính các điều khác. Nhật chủ Quí âm thủy là người luôn linh động, không ngồi một chỗ vì tính chất của thủy đầu tiên là "chảy", "lưu hành" mới hợp tự nhiên. Vì thế có thể đoán người này sẽ không thích hợp với những sự việc bắt buộc anh ta ngồi lâu sau bàn giấy hoặc trói buộc một chỗ. Ngược lại cũng có thể hiểu là những nghề có liên can đến di chuyển, đi nhiều, du lịch... Về cá tính của Thủy thì cũng đã có bài ghi rồi. Các Can khác cũng tương tự mà định tính cách cơ bản của nhật chủ. Xong phần này là bạn đã có một cái nhìn nhất định về bản thân.
6. Xác định thân vượng hay nhược. Vấn đề này là hơi khó, nhưng phải trải qua, không thì không đi tiếp các nhận định sau được. Chú ý cần thiết cơ bản là:
Nhật chủ sinh trong mùa của nó:
- Mộc sinh mùa Xuân (Giáp Ất sinh tháng Dần Mão Thìn)
- Hỏa sinh mùa Hạ (Bính Đinh sinh Tị Ngọ Mùi)
- Kim sinh mùa Thu (Canh Tân sinh Thân Dậu Tuất) và - Thủy sinh mùa Đông (Nhâm Quí sinh Hợi Tí Sửu)
thì gọi là Vượng.
Nhưng nếu không sinh đúng mùa như vậy thì sao? Lúc đó ta tìm xem Kiêu Ấn của Nhật chủ ở đâu.
Thí dụ trên là QUÍ âm thủy sinh trong tháng Dậu Kim. Dậu Bạch Lộ là mùa Thu. Tân Kim là Kiêu thần của Quí. Bạn biết Kim sinh Thủy, nên nói rằng QUÍ không vượng nhưng cường bởi vì được lệnh tháng sinh cho.
(Các thuật ngữ cần chú ý:
- VƯỢNG là sáng sủa, thịnh vượng, chính danh,
- CƯỜNG là có lực, có sức, mạnh mẽ,
- NHƯỢC là suy, yếu, tuổi nhỏ cũng gọi là Nhược vì chưa lớn mạnh,
- THIỂU là ít, kém cỏi.
Có người thường hay "đếm" các can, chi, tỉ như 3 con Giáp, 2 con Dậu...v..v.. và cộng lại thành bao nhiêu Mộc, bao nhiêu Kim đấy...Không phải như vậy. Đấy là lầm Thể và Chất. Trong Dịch học, Lý số chỉ nói đến Chất (tính chất) chứ không nói đến số lượng. Vậy người có nhiều Quí, nhiều Tí Hợi chẳng hạn phải gọi là Thủy cường. Cứ tưởng tượng như ngày bão tố, sóng cao ta chỉ nói là mưa to gió lớn, chứ không ai đếm có bao nhiêu giọt nước cả.)
Trở lại thí dụ Quí nhật chủ trên. Cháu trai sinh vào mùa Thu, Kim sinh Thủy nên thể chất mạnh. Đó là điều kiện đầu tiên để xác định thân vượng hay cường, mà ta cứ gọi chung chung là Thân Vượng do có Ấn thụ trong lệnh tháng là như vậy. Tuy nhiên cũng có thể nói chung như thế được cho thêm phần đơn giản, nhưng chỉ cần nắm vững về Cường hay Vượng là được rồi.
7. Vậy nếu là thân Cường thì ta xem tiếp các quan hệ chung quanh nó với đặc điểm của Nhật Chủ Vượng. Nhắc lại:
Nếu Nhật Chủ Nhược thì đảo lại vị trí Thuận lợi và Bất lợi.
Mức độ khắc, sinh… còn tùy theo trường hợp. Tới đây chỉ nên hiểu rằng: Căn bản là tất cả các hành đều có mặt thì tứ trụ cân đối.
Trở lại trụ của cháu trai ở trên, xác định được Quí nhật chủ là mạnh rồi, vậy Quí không nên có thêm nhiều Kim nhiều Thủy nữa, mà Quí rất thích có Thổ, Hỏa và Mộc để dung hòa tứ trụ.
8. Sau đó là tính đại vận. Thí dụ trên cho phép tính từ tháng Đinh Dậu, nam nhật chủ theo năm dương (Bính Tuất) thì tính thuận, tức là ghi từ sau Đinh Dậu là đến Mậu Tuất:
Có nghĩa là vận Mậu Tuất cháu còn được Kim trợ sinh (vì Thân Dậu Tuất là tháng mùa Thu), sang 3 vận Hợi Tí Sửu ta gọi là vận Thủy, 3 vận Dần Mão Thìn là vận Mộc.
Có thể nói sơ để nhận định căn bản rằng cháu trai này phải vượt qua 3 vận Thủy để đạt được thành công ở vận Mộc, vì bản thân Quí Thủy của cháu cần có Thổ Hỏa Mộc như bước số 7 đã xác định.
Đấy là nhận xét có thể nói là “Thiên Khí”, là những thuận lợi hay nghịch đảo do Trời định đoạt. Phần thứ nhì ta mới xét đến Địa Chi và Nhân Nguyên là xem Trời Đất giao hòa như thế nào.
__________________
Bi-Trí-Dũng
( theo Moclan, nhantrachoc.net.vn)
http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/20167-lop-hoc-tu-tru-so-cap-va-trung-cap-cho-tat-ca-moi-nguoi/page__st__20
Các bước tuần tự xét tứ trụ
Có bạn hỏi tôi qua pm về những bước cụ thể khi tự xem xét tứ trụ.
moclan rất hoan nghênh điều này vì qua đó ta tự biết rõ bản thân hơn để khi
tiếp xúc với những bài người khác viết thì ít nhiều bớt được phần thắc mắc.
Hiện thời phong trào học Tử bình đang lên cao, ai cũng nghe nói đến chữ
"Tử Bình" nhiều hơn và mong muốn được giải tứ trụ cho rõ, thế nhưng
moclan nhận thấy càng hỏi càng được trả lời lại càng thắc mắc. Lý do là bạn
không hiểu môn học này chứ đôi khi không phải tại người giải. Tuy thế cũng có
nhiều lời giải quá cao siêu hoặc quá rườm rà, rõ là cả 2 đều lâm vào thế kẹt
của điều cần phải xúc tích, có nghĩa là đơn giản nhưng rõ ràng. Vì thế bạn chỉ
cần ngồi lại tập trung vào chính tứ trụ của mình thì sẽ thấy mọi việc sáng tỏ
hơn nhiều.
Điều kiện trước khi đi vào các phần sau đây là bạn đã phải biết sơ qua về Can, Chi, Tiết khí, Ngũ hành. Những điều này đều được ghi chép rất nhiều. Khi xét tứ trụ nên mở sẵn các chương này trước mắt, điều gì không rõ là xem lại liền.
Phần thứ nhất: Xác định nhật chủ, vượng nhược căn bản
1. Trước hết bạn phải có Lịch Vạn Niên trong tay hoặc trình Âm Lịch mà hiện nay thường dùng là của Hồ Ngọc Đức.
2. Ngày sinh lấy theo dương lịch, không xem ngày âm lịch và chỉ tính theo tiết khí, không lấy tháng ta. Thí dụ một cháu trai sinh ngày dương lịch ghi là 1.10.2006 lúc 7 giờ sáng. Trên lịch cho thấy ngày này nằm trong tiết Bạch Lộ (còn 6 ngày nữa mới tới Hàn Lộ), vậy tháng sinh quy ra là Dậu. Trong lịch có ghi sẵn là tháng Đinh Dậu.
3. Viết bát tự ra trên giấy đầy đủ Can Chi và Can tàng trong tháng:
Điều kiện trước khi đi vào các phần sau đây là bạn đã phải biết sơ qua về Can, Chi, Tiết khí, Ngũ hành. Những điều này đều được ghi chép rất nhiều. Khi xét tứ trụ nên mở sẵn các chương này trước mắt, điều gì không rõ là xem lại liền.
Phần thứ nhất: Xác định nhật chủ, vượng nhược căn bản
1. Trước hết bạn phải có Lịch Vạn Niên trong tay hoặc trình Âm Lịch mà hiện nay thường dùng là của Hồ Ngọc Đức.
2. Ngày sinh lấy theo dương lịch, không xem ngày âm lịch và chỉ tính theo tiết khí, không lấy tháng ta. Thí dụ một cháu trai sinh ngày dương lịch ghi là 1.10.2006 lúc 7 giờ sáng. Trên lịch cho thấy ngày này nằm trong tiết Bạch Lộ (còn 6 ngày nữa mới tới Hàn Lộ), vậy tháng sinh quy ra là Dậu. Trong lịch có ghi sẵn là tháng Đinh Dậu.
3. Viết bát tự ra trên giấy đầy đủ Can Chi và Can tàng trong tháng:
NămThángNgàyGiờCan
style='outline: none;orphans: 2;widows: 2;-webkit-text-size-adjust: auto;
-webkit-text-stroke-width: 0px;word-spacing:0px'
onload="HSImageResizer.createOn(this);" v:shapes="_x0000_i1025">BínhĐinhQuíBính
Chi' border=0 onload="HSImageResizer.createOn(this);"
v:shapes="_x0000_i1026">
TuấtDậuHợiThìn Can tàngmậu,
đinh, tântânnhâm, giápmậu, quí, ất
4. Đánh dấu ngày sinh là Quí và nhớ đây không nói gì đến "mạng Thủy" cả, mà can ngày Quí chỉ gọi Âm Thủy.
5. Nhận định về Quí Thủy là tiền đề quan trọng trước nhất, chưa cần tính các điều khác. Nhật chủ Quí âm thủy là người luôn linh động, không ngồi một chỗ vì tính chất của thủy đầu tiên là "chảy", "lưu hành" mới hợp tự nhiên. Vì thế có thể đoán người này sẽ không thích hợp với những sự việc bắt buộc anh ta ngồi lâu sau bàn giấy hoặc trói buộc một chỗ. Ngược lại cũng có thể hiểu là những nghề có liên can đến di chuyển, đi nhiều, du lịch... Về cá tính của Thủy thì cũng đã có bài ghi rồi. Các Can khác cũng tương tự mà định tính cách cơ bản của nhật chủ. Xong phần này là bạn đã có một cái nhìn nhất định về bản thân.
6. Xác định thân vượng hay nhược. Vấn đề này là hơi khó, nhưng phải trải qua, không thì không đi tiếp các nhận định sau được. Chú ý cần thiết cơ bản là:
Nhật chủ sinh trong mùa của nó:
- Mộc sinh mùa Xuân (Giáp Ất sinh tháng Dần Mão Thìn)
- Hỏa sinh mùa Hạ (Bính Đinh sinh Tị Ngọ Mùi)
- Kim sinh mùa Thu (Canh Tân sinh Thân Dậu Tuất) và - Thủy sinh mùa Đông (Nhâm Quí sinh Hợi Tí Sửu)
thì gọi là Vượng.
Nhưng nếu không sinh đúng mùa như vậy thì sao? Lúc đó ta tìm xem Kiêu Ấn của Nhật chủ ở đâu.
Thí dụ trên là QUÍ âm thủy sinh trong tháng Dậu Kim. Dậu Bạch Lộ là mùa Thu. Tân Kim là Kiêu thần của Quí. Bạn biết Kim sinh Thủy, nên nói rằng QUÍ không vượng nhưng cường bởi vì được lệnh tháng sinh cho.
(Các thuật ngữ cần chú ý:
- VƯỢNG là sáng sủa, thịnh vượng, chính danh,
- CƯỜNG là có lực, có sức, mạnh mẽ,
- NHƯỢC là suy, yếu, tuổi nhỏ cũng gọi là Nhược vì chưa lớn mạnh,
- THIỂU là ít, kém cỏi.
Có người thường hay "đếm" các can, chi, tỉ như 3 con Giáp, 2 con Dậu...v..v.. và cộng lại thành bao nhiêu Mộc, bao nhiêu Kim đấy...Không phải như vậy. Đấy là lầm Thể và Chất. Trong Dịch học, Lý số chỉ nói đến Chất (tính chất) chứ không nói đến số lượng. Vậy người có nhiều Quí, nhiều Tí Hợi chẳng hạn phải gọi là Thủy cường. Cứ tưởng tượng như ngày bão tố, sóng cao ta chỉ nói là mưa to gió lớn, chứ không ai đếm có bao nhiêu giọt nước cả.)
Trở lại thí dụ Quí nhật chủ trên. Cháu trai sinh vào mùa Thu, Kim sinh Thủy nên thể chất mạnh. Đó là điều kiện đầu tiên để xác định thân vượng hay cường, mà ta cứ gọi chung chung là Thân Vượng do có Ấn thụ trong lệnh tháng là như vậy. Tuy nhiên cũng có thể nói chung như thế được cho thêm phần đơn giản, nhưng chỉ cần nắm vững về Cường hay Vượng là được rồi.
7. Vậy nếu là thân Cường thì ta xem tiếp các quan hệ chung quanh nó với đặc điểm của Nhật Chủ Vượng. Nhắc lại:
Thuận lợiBất lợi kiểm soát được hành nó
khắc chế (Tài)hành cùng loại (Tỉ, Kiếp) có hành chế bớt (Quan, Sát)hành sinh
trợ cho mình quá nhiều (Kiêu, Ấn) sinh trợ cho hành theo chiều tương sinh
(Thực, Thương)
Nếu Nhật Chủ Nhược thì đảo lại vị trí Thuận lợi và Bất lợi.
Bất lợiThuận lợi không kiểm soát được
hành nó khắc chế (Tài)có hành cùng loại (Tỉ, Kiếp) hành khắc chế (Quan,
Sát)hành sinh trợ cho mình (Kiêu, Ấn) không thể sinh trợ cho hành theo chiều
tương sinh (Thực, Thương)
Mức độ khắc, sinh… còn tùy theo trường hợp. Tới đây chỉ nên hiểu rằng: Căn bản là tất cả các hành đều có mặt thì tứ trụ cân đối.
Trở lại trụ của cháu trai ở trên, xác định được Quí nhật chủ là mạnh rồi, vậy Quí không nên có thêm nhiều Kim nhiều Thủy nữa, mà Quí rất thích có Thổ, Hỏa và Mộc để dung hòa tứ trụ.
8. Sau đó là tính đại vận. Thí dụ trên cho phép tính từ tháng Đinh Dậu, nam nhật chủ theo năm dương (Bính Tuất) thì tính thuận, tức là ghi từ sau Đinh Dậu là đến Mậu Tuất:
2122232425262 Mậu TuấtKỉ HợiCanh TíTân
SửuNhâm DầnQuí MãoGiáp Thìn KimThủyThủyThủyMộcMộcMộc
Có nghĩa là vận Mậu Tuất cháu còn được Kim trợ sinh (vì Thân Dậu Tuất là tháng mùa Thu), sang 3 vận Hợi Tí Sửu ta gọi là vận Thủy, 3 vận Dần Mão Thìn là vận Mộc.
Có thể nói sơ để nhận định căn bản rằng cháu trai này phải vượt qua 3 vận Thủy để đạt được thành công ở vận Mộc, vì bản thân Quí Thủy của cháu cần có Thổ Hỏa Mộc như bước số 7 đã xác định.
Đấy là nhận xét có thể nói là “Thiên Khí”, là những thuận lợi hay nghịch đảo do Trời định đoạt. Phần thứ nhì ta mới xét đến Địa Chi và Nhân Nguyên là xem Trời Đất giao hòa như thế nào.
__________________
Bi-Trí-Dũng
( theo Moclan, nhantrachoc.net.vn)
Các bài viết trong cùng chuyên mục:
Nói đến "bịnh" của
trụ thì đúng là tôi đang định viết tiếp phần giải như sinh đúng mùa, có ấn thụ
phù trợ mà vẫn lận đận. Cái "bịnh" nằm ở chỗ "phe kia" mạnh
hơn. Thành thử người vượng cường mà như dở dở ương ương, hồi xưa người ta nói
"thầy chẳng ra thầy, thợ cũng lông bông" là thế. Tiêu biểu là thời
gian đang học hành thì thi cử cố gắng hết ga mới vượt qua, như tứ trụ dưới đây
là nam mệnh:
NămThángNgàyGiờTàiTàiNCThươngTânTânBín hKỷkimkimhỏathổDậuMãoThânSửukimmộckim, thủy, thổthổ, thủy, kim
Bính dương hỏa gặp Tân âm kim > khuynh hướng là chuyển sang hành Thủy, suy ra Bính được lệnh tháng (sinh mùa Xuân Hỏa tướng, lại có Ấn là Mộc sinh phù) nhưng khí lực Hỏa của mình kể như bị "giam", mà Tân cũng suy vì tiết khí sinh cho Thủy (hành thiên hướng).
Kỷ âm thổ được Bính dương hỏa sinh thuận (ngày sinh giờ), nhưng Hỏa đang bị "tù" như trên nói, chưa xác quyết được điều gì. Kỷ là Thương Quan.
Mão Dậu xung ở trụ năm và trụ tháng. Mão là Ất, là Ấn của Bính. Dậu là Tân, là chính Tài. Tài và Ấn xung là sức ép nằm ở hai diện học hành và tiền tài, nằm ở trụ tháng và năm là cha mẹ và ông bà. Cụ thể là cha mẹ rời xa quê hương sinh sống làm ăn, bản thân cũng phải xa cha mẹ học Đại học, vừa học vừa làm bồi bàn kiếm tiền, nói chung khả năng cả việc học (Ấn) và tài chánh (Tài) đều vất vả mới có.
Vì vậy nên gọi là có "bịnh" vì thân vượng chuyển sang thành "nhược", vậy kỵ thần (sự bất lợi) của thân nhược nằm ở bảng mà moclan đã kẽ ở đầu bài.
Bính Hỏa này không khắc chế được Tài và Quan cũng không thể mạnh ở Thực. Anh ta cần gặp Bính, Đinh, Giáp, Ất, nói chung là cần Hỏa và Mộc.
Đại vận lại đi nghịch từ Dần trở về Sửu Tí Hợi là những bất thuận lợi cho anh ta. Chỉ còn chờ gặp đúng hàng Can là thiên thời cứu hộ. Bởi vậy mới nói rằng "dở dở ương ương" ... là khi thân vượng mà hóa thành nhược là kiểu này.
Tôi có giới thiệu cho anh ta một cô gái có tứ trụ mang nhiều mặt thuận lợi về những hành anh ta cần có, từ đấy, hai cá tính tuy có khác biệt một chút, nhưng việc học trở nên "trơn tru" hơn và năm nay đang thi ra trường. Tôi cũng đang chờ kết quả ra sao. Có gì tôi sẽ báo cho biết "bình dược phẩm" này có tác dụng thực tiễn như thế nào .
Thương.........quan..............NC...................Ấn...........
Giáp ngọ ......mậu thìn ........quý tỵ .............canh thân
.......................Ất quý mậu
Vậy tứ trụ này có :
nhật chủ nhược nói lên điều gì ?
Mậu quý hóa hợp nói lên điều gì ?
Chi ngọ không vong nói lên điều gì ?
Quan cách nói lên điều gì ?
Khi nhật chủ nhược, thứ nhất không phải là hoàn toàn bất lực, không làm được điều gì. Cũng như thân vượng thì trở thành anh hùng cái thế hoặc vá trời đội đất. Tôi muốn nói rõ ý lại lần nữa các bạn hiểu nhé, nhận định "nhược" hay "vượng" ban đầu là để biết "sức lực" của chính mình và làm nên công nên chuyện gì trong tầm tay của mình như thế nào. Bạn thấy đó, chính là muốn nói đến không gian và thời gian sống. Cuối cùng là để tránh tối đa những nguy hiểm, những thất bại trên trường đời. Nhưng tránh được đến đâu hoặc thành công đến đâu thì dừng lại, lại là vấn đề khác.
Dịch tức là chuyển biến, xoay vần. Không bao giờ có người nào, có sự vật gì cứ như thế mãi, đá còn phải mòn kia mà. Thành thử, khi thân mình "nhược" ban đầu lúc sinh ra đời sẽ có thể chuyển thành "vượng" theo thời gian. Nhìn tứ trụ của mình là ngày sinh tháng đẻ khi mới lọt lòng chỉ là một nhận định ban sơ. Cái quyết định là Nuôi dưỡng, Giáo Dục, Tâm Tính và VẬN, HẠN. Các bạn tự triển khai các khía cạnh này nhé vì chính đấy là cuộc đời đó thôi, không có gì xa lạ, mà ở tuổi chúng ta đều đã biết.
Vậy thì một đứa trẻ mới sinh ra đời, có thể nói nó hoàn toàn bất lực thật cho dù tứ trụ của nó là nhược hay vượng nó có cần biết đâu? Vì nó dựa vào sự nuôi dưỡng của gia đình. Nếu sự nuôi dưỡng tốt thì trẻ trưởng thành tốt, và tốt trong chừng mực thì sự tiến triển có khả năng kéo dài như thế, còn ngược lại, vì bất kỳ lý do gì thì thân có vượng ban đầu cũng gẫy đổ. Theo nghĩa của sự "huyền bí" là như thế đó. Các sự việc đều có sự giao cảm với nhau, cái mà bạn nhìn thấy kể như là mặt dương, vì nó sáng, mặt âm của nó bạn "chưa" nhìn thấy đấy thôi, nhưng nó hiện hữu đồng thời.
moclan chỉ muốn nhấn mạnh lại những gì mình viết ra hoàn toàn là một ý kiến ban đầu nhé, đừng quá cứng ngắc vào đó.
Trong tháng có Ấn là kể như thân vượng là như vậy. Sau này bạn sẽ hiểu Ấn không phải "bám cứng" vào trụ tháng. Và thân nhược (sinh trái mùa) mà được bẩm ấn thụ sinh cho ngay từ đầu thì vẫn sẽ thành đạt.
====
Trích:
Theo ngu kiến của em xác định được thân nhược để tìm dụng thần cho trụ.
Xác định thân vượng thì cũng để tìm dụng thần cho trụ chứ, hay là hoason muốn nói là để tìm kị thần cho trụ?
Trích:
Mậu hợp quý chưa thể hóa hỏa được ( vì khi hóa phải dựa vào ngũ hành của lệnh tháng hoặc can tàng trong địa chi của lệnh tháng có ngũ hành giống với ngũ hành của Hóa thành "nó cứ lộn xộn và mơ hồ" trong sách TVH nói vậy, đọc mà không thảo luận nó lại quên)
Can hợp hóa thật ra là hợp Âm Dương, đáng lý ra nó khắc thì lại hợp, bởi vì theo lý "1 âm 1 dương thành Đạo". Nên ta thấy Mậu dương thổ không khắc Quí âm thủy mà 2 bên hợp nhau thành Hỏa.
Thế nhưng phải hiểu cả 2 mặt. Khi ta cần có HỎA thì tốt. Nhưng nếu tứ trụ cần có Mậu hoặc Quí mà 2 can này đứng gần nhau nên hợp lại, thành thử mất tác dụng của sự cần thiết đó. Nôm na là tỉ như hoason cần tiền, có một số tiền, nhưng bạn lại muốn mượn đỡ, hoason quí bạn bè nên cho mượn nên túi mình lại rỗng. Khi nào được trả lại số tiền đó thì qua luận đoán tứ trụ là trong đại vận, lưu niên, hay thậm chí ngay trong cung mệnh, thai nhi... đã có rồi. Phải tìm cho ra "số tiền cho vay" đó ở đâu, thí dụ vậy.
Lệnh tháng là chủ đạo vì từ nó tính ra đại vận, nên lệnh tháng có hành khí hóa đó thì việc "hóa thành" mới xảy ra. Có thuyết nói hễ có Chi trợ giúp, như bạn trietlokv viết, thì cũng hóa. Có thuyết nói Can thấu lộ ở những nơi khác thì cũng hóa được. moclan cũng chấp nhận các thuyết này, nhưng "lực" hóa khí phải hoàn toàn đầy đủ, như Tị Ngọ Mùi hoặc Dần Ngọ Tuất VÀ các chi này trong trụ không được có xung, có khắc, không vong... Bởi vì qua xung khắc hình hại, lực sẽ kém, điều này ai cũng rõ. Điều kiện 1 không thỏa thì điều kiện 2, 3 lại phải thật là khó.
Trích:
- Nhưng mặt khác THÂN nhược hóa mất QUAN cái khắc mình lại là tốt ??
Quan Sát là hành khắc ta, như Kim khắc Mộc. Mộc là nhật chủ thì Kim là Quan Sát. Nói chung thì hình tượng "khắc ta" là chỉ lực đối kháng, nhưng phải có, giống như các loại tương hành khác vậy mà. Không phải mất hành "khắc ta" là chuyện tốt. Điều này nên thật phải rõ ngay từ ban đầu.
Thân nhược, đã nói không phải là bại xụi, yếu kém, nên đến nỗi không thể có Quan! Nên hiểu là không làm "quan to" được, "quan bé bé" thì vẫn được chứ sao.
Trong thí dụ mà Quan bị hợp, lại thiếu Ấn, hoặc Ấn suy thì đường công danh không sáng sủa, không thuận chiều, học hành kém, sức khỏe cũng không tốt. Có khi lại như ta có cảm giác như làm không "đúng việc", không "đúng chỗ", các bà các cô mà gặp Quan bị hợp mà thêm Đào hoa kiếp là bị phụ tình, ngoại tình, bạn bè phản trắc, thí dụ vậy...
====
Trích:
- Khi luận thì Đào hoa và Quan phải ỏ cùng một trụ .??VD trụ tháng có QUAN thì ĐÀo Hoa cũng phải ỏ trụ tháng, nếu Đào hoa đóng ở trụ khác (trụ năm , ngày, giờ ) là không nghiệm phải không chị?
không cần phải ở cùng trụ (Đào hoa tinh rất phức tạp, cần có thì giờ viết rõ, không thì lẫn lộn hết).
Trích:
- Chị ơi người nào trụ có Hoa cái mới học được tử bình ? ?
không hẳn là vậy, đầu tiên thì hiểu là có Hoa Cái thì hơi...bị không nói nhiều! Tại sao? Vì Hoa Cái chiếu mệnh thì người rất giỏi tập trung. Hãy nhìn vào cách đặt HC là biết ngay.
- Dần Ngọ Tuất (hỏa cục): Tuất là Hoa Cái cho những ngày sinh có Dần hay Ngọ. Tuất là Mộ Kho của hành Hỏa.
- Hợi Mão Mùi (mộc cục): ngày sinh Hợi hay Mão gặp Mùi là có Hoa Cái, vì Mùi là mộ kho của hành Mộc.
- Thân Tí Thìn (thủy cục): giống như trên, Thìn là HC cho ngày Thân hay Tí. Thìn là mộ kho của hành Thủy.
- Tị Dậu Sửu (kim cục): Sửu là mộ kho của hành Kim. Ai sinh ngày Tị hay Dậu gặp Sửu là có HC.
Có thuyết lấy cả năm sinh đặt HC, đó là vì xài luôn cả 2 lý thuyết Tử bình, trước thì lấy trọng tâm là năm, sau thì lấy trọng tâm là ngày. Cuối cùng hậu học không biết giải quyết ra sao nên lấy luôn cả trụ năm và trụ ngày mà đặt các thần sát là lý do như vậy.
Vì tính chất là "mộ", nơi quy về, tàng ẩn, không động, là nơi phải thanh tịnh, nên HC ở một vài người cho thấy sức cảm ứng với trời đất rất cao, tùy vào thiên tư mà xuất phát ra thành thần đồng âm nhạc, giáo sư, cao tăng...đủ mọi khía cạnh, vì là những người giỏi tập trung trí tuệ. Nhưng giống như tất cả các thần sát, ngũ hành...v.v.. khác, nếu gặp Không Vong, hình xung khắc hại thì mọi sự đảo ngược, hoặc lệch lạc hướng đi, có ưu tú đấy nhưng khi hành xử thì không phân minh.
Bởi vì tính chất của Mộ là yên tĩnh, mà bị động thì mất tập trung. Nhất là trẻ em thì học hành không thông suốt ở những giai đoạn gặp HC bị khắc là vậy.
Học Tử bình cũng không cần thiết phải có Hoa Cái, đấy chỉ là một môn cần nghiên cứu sâu như mọi môn học khác. __________________
====
(theo Moclan, nhantrachoc.vn)
NămThángNgàyGiờTàiTàiNCThươngTânTânBín hKỷkimkimhỏathổDậuMãoThânSửukimmộckim, thủy, thổthổ, thủy, kim
Bính dương hỏa gặp Tân âm kim > khuynh hướng là chuyển sang hành Thủy, suy ra Bính được lệnh tháng (sinh mùa Xuân Hỏa tướng, lại có Ấn là Mộc sinh phù) nhưng khí lực Hỏa của mình kể như bị "giam", mà Tân cũng suy vì tiết khí sinh cho Thủy (hành thiên hướng).
Kỷ âm thổ được Bính dương hỏa sinh thuận (ngày sinh giờ), nhưng Hỏa đang bị "tù" như trên nói, chưa xác quyết được điều gì. Kỷ là Thương Quan.
Mão Dậu xung ở trụ năm và trụ tháng. Mão là Ất, là Ấn của Bính. Dậu là Tân, là chính Tài. Tài và Ấn xung là sức ép nằm ở hai diện học hành và tiền tài, nằm ở trụ tháng và năm là cha mẹ và ông bà. Cụ thể là cha mẹ rời xa quê hương sinh sống làm ăn, bản thân cũng phải xa cha mẹ học Đại học, vừa học vừa làm bồi bàn kiếm tiền, nói chung khả năng cả việc học (Ấn) và tài chánh (Tài) đều vất vả mới có.
Vì vậy nên gọi là có "bịnh" vì thân vượng chuyển sang thành "nhược", vậy kỵ thần (sự bất lợi) của thân nhược nằm ở bảng mà moclan đã kẽ ở đầu bài.
Bính Hỏa này không khắc chế được Tài và Quan cũng không thể mạnh ở Thực. Anh ta cần gặp Bính, Đinh, Giáp, Ất, nói chung là cần Hỏa và Mộc.
Đại vận lại đi nghịch từ Dần trở về Sửu Tí Hợi là những bất thuận lợi cho anh ta. Chỉ còn chờ gặp đúng hàng Can là thiên thời cứu hộ. Bởi vậy mới nói rằng "dở dở ương ương" ... là khi thân vượng mà hóa thành nhược là kiểu này.
Tôi có giới thiệu cho anh ta một cô gái có tứ trụ mang nhiều mặt thuận lợi về những hành anh ta cần có, từ đấy, hai cá tính tuy có khác biệt một chút, nhưng việc học trở nên "trơn tru" hơn và năm nay đang thi ra trường. Tôi cũng đang chờ kết quả ra sao. Có gì tôi sẽ báo cho biết "bình dược phẩm" này có tác dụng thực tiễn như thế nào .
Thương.........quan..............NC...................Ấn...........
Giáp ngọ ......mậu thìn ........quý tỵ .............canh thân
.......................Ất quý mậu
Vậy tứ trụ này có :
nhật chủ nhược nói lên điều gì ?
Mậu quý hóa hợp nói lên điều gì ?
Chi ngọ không vong nói lên điều gì ?
Quan cách nói lên điều gì ?
Khi nhật chủ nhược, thứ nhất không phải là hoàn toàn bất lực, không làm được điều gì. Cũng như thân vượng thì trở thành anh hùng cái thế hoặc vá trời đội đất. Tôi muốn nói rõ ý lại lần nữa các bạn hiểu nhé, nhận định "nhược" hay "vượng" ban đầu là để biết "sức lực" của chính mình và làm nên công nên chuyện gì trong tầm tay của mình như thế nào. Bạn thấy đó, chính là muốn nói đến không gian và thời gian sống. Cuối cùng là để tránh tối đa những nguy hiểm, những thất bại trên trường đời. Nhưng tránh được đến đâu hoặc thành công đến đâu thì dừng lại, lại là vấn đề khác.
Dịch tức là chuyển biến, xoay vần. Không bao giờ có người nào, có sự vật gì cứ như thế mãi, đá còn phải mòn kia mà. Thành thử, khi thân mình "nhược" ban đầu lúc sinh ra đời sẽ có thể chuyển thành "vượng" theo thời gian. Nhìn tứ trụ của mình là ngày sinh tháng đẻ khi mới lọt lòng chỉ là một nhận định ban sơ. Cái quyết định là Nuôi dưỡng, Giáo Dục, Tâm Tính và VẬN, HẠN. Các bạn tự triển khai các khía cạnh này nhé vì chính đấy là cuộc đời đó thôi, không có gì xa lạ, mà ở tuổi chúng ta đều đã biết.
Vậy thì một đứa trẻ mới sinh ra đời, có thể nói nó hoàn toàn bất lực thật cho dù tứ trụ của nó là nhược hay vượng nó có cần biết đâu? Vì nó dựa vào sự nuôi dưỡng của gia đình. Nếu sự nuôi dưỡng tốt thì trẻ trưởng thành tốt, và tốt trong chừng mực thì sự tiến triển có khả năng kéo dài như thế, còn ngược lại, vì bất kỳ lý do gì thì thân có vượng ban đầu cũng gẫy đổ. Theo nghĩa của sự "huyền bí" là như thế đó. Các sự việc đều có sự giao cảm với nhau, cái mà bạn nhìn thấy kể như là mặt dương, vì nó sáng, mặt âm của nó bạn "chưa" nhìn thấy đấy thôi, nhưng nó hiện hữu đồng thời.
moclan chỉ muốn nhấn mạnh lại những gì mình viết ra hoàn toàn là một ý kiến ban đầu nhé, đừng quá cứng ngắc vào đó.
Trong tháng có Ấn là kể như thân vượng là như vậy. Sau này bạn sẽ hiểu Ấn không phải "bám cứng" vào trụ tháng. Và thân nhược (sinh trái mùa) mà được bẩm ấn thụ sinh cho ngay từ đầu thì vẫn sẽ thành đạt.
====
Trích:
Theo ngu kiến của em xác định được thân nhược để tìm dụng thần cho trụ.
Xác định thân vượng thì cũng để tìm dụng thần cho trụ chứ, hay là hoason muốn nói là để tìm kị thần cho trụ?
Trích:
Mậu hợp quý chưa thể hóa hỏa được ( vì khi hóa phải dựa vào ngũ hành của lệnh tháng hoặc can tàng trong địa chi của lệnh tháng có ngũ hành giống với ngũ hành của Hóa thành "nó cứ lộn xộn và mơ hồ" trong sách TVH nói vậy, đọc mà không thảo luận nó lại quên)
Can hợp hóa thật ra là hợp Âm Dương, đáng lý ra nó khắc thì lại hợp, bởi vì theo lý "1 âm 1 dương thành Đạo". Nên ta thấy Mậu dương thổ không khắc Quí âm thủy mà 2 bên hợp nhau thành Hỏa.
Thế nhưng phải hiểu cả 2 mặt. Khi ta cần có HỎA thì tốt. Nhưng nếu tứ trụ cần có Mậu hoặc Quí mà 2 can này đứng gần nhau nên hợp lại, thành thử mất tác dụng của sự cần thiết đó. Nôm na là tỉ như hoason cần tiền, có một số tiền, nhưng bạn lại muốn mượn đỡ, hoason quí bạn bè nên cho mượn nên túi mình lại rỗng. Khi nào được trả lại số tiền đó thì qua luận đoán tứ trụ là trong đại vận, lưu niên, hay thậm chí ngay trong cung mệnh, thai nhi... đã có rồi. Phải tìm cho ra "số tiền cho vay" đó ở đâu, thí dụ vậy.
Lệnh tháng là chủ đạo vì từ nó tính ra đại vận, nên lệnh tháng có hành khí hóa đó thì việc "hóa thành" mới xảy ra. Có thuyết nói hễ có Chi trợ giúp, như bạn trietlokv viết, thì cũng hóa. Có thuyết nói Can thấu lộ ở những nơi khác thì cũng hóa được. moclan cũng chấp nhận các thuyết này, nhưng "lực" hóa khí phải hoàn toàn đầy đủ, như Tị Ngọ Mùi hoặc Dần Ngọ Tuất VÀ các chi này trong trụ không được có xung, có khắc, không vong... Bởi vì qua xung khắc hình hại, lực sẽ kém, điều này ai cũng rõ. Điều kiện 1 không thỏa thì điều kiện 2, 3 lại phải thật là khó.
Trích:
- Nhưng mặt khác THÂN nhược hóa mất QUAN cái khắc mình lại là tốt ??
Quan Sát là hành khắc ta, như Kim khắc Mộc. Mộc là nhật chủ thì Kim là Quan Sát. Nói chung thì hình tượng "khắc ta" là chỉ lực đối kháng, nhưng phải có, giống như các loại tương hành khác vậy mà. Không phải mất hành "khắc ta" là chuyện tốt. Điều này nên thật phải rõ ngay từ ban đầu.
Thân nhược, đã nói không phải là bại xụi, yếu kém, nên đến nỗi không thể có Quan! Nên hiểu là không làm "quan to" được, "quan bé bé" thì vẫn được chứ sao.
Trong thí dụ mà Quan bị hợp, lại thiếu Ấn, hoặc Ấn suy thì đường công danh không sáng sủa, không thuận chiều, học hành kém, sức khỏe cũng không tốt. Có khi lại như ta có cảm giác như làm không "đúng việc", không "đúng chỗ", các bà các cô mà gặp Quan bị hợp mà thêm Đào hoa kiếp là bị phụ tình, ngoại tình, bạn bè phản trắc, thí dụ vậy...
====
Trích:
- Khi luận thì Đào hoa và Quan phải ỏ cùng một trụ .??VD trụ tháng có QUAN thì ĐÀo Hoa cũng phải ỏ trụ tháng, nếu Đào hoa đóng ở trụ khác (trụ năm , ngày, giờ ) là không nghiệm phải không chị?
không cần phải ở cùng trụ (Đào hoa tinh rất phức tạp, cần có thì giờ viết rõ, không thì lẫn lộn hết).
Trích:
- Chị ơi người nào trụ có Hoa cái mới học được tử bình ? ?
không hẳn là vậy, đầu tiên thì hiểu là có Hoa Cái thì hơi...bị không nói nhiều! Tại sao? Vì Hoa Cái chiếu mệnh thì người rất giỏi tập trung. Hãy nhìn vào cách đặt HC là biết ngay.
- Dần Ngọ Tuất (hỏa cục): Tuất là Hoa Cái cho những ngày sinh có Dần hay Ngọ. Tuất là Mộ Kho của hành Hỏa.
- Hợi Mão Mùi (mộc cục): ngày sinh Hợi hay Mão gặp Mùi là có Hoa Cái, vì Mùi là mộ kho của hành Mộc.
- Thân Tí Thìn (thủy cục): giống như trên, Thìn là HC cho ngày Thân hay Tí. Thìn là mộ kho của hành Thủy.
- Tị Dậu Sửu (kim cục): Sửu là mộ kho của hành Kim. Ai sinh ngày Tị hay Dậu gặp Sửu là có HC.
Có thuyết lấy cả năm sinh đặt HC, đó là vì xài luôn cả 2 lý thuyết Tử bình, trước thì lấy trọng tâm là năm, sau thì lấy trọng tâm là ngày. Cuối cùng hậu học không biết giải quyết ra sao nên lấy luôn cả trụ năm và trụ ngày mà đặt các thần sát là lý do như vậy.
Vì tính chất là "mộ", nơi quy về, tàng ẩn, không động, là nơi phải thanh tịnh, nên HC ở một vài người cho thấy sức cảm ứng với trời đất rất cao, tùy vào thiên tư mà xuất phát ra thành thần đồng âm nhạc, giáo sư, cao tăng...đủ mọi khía cạnh, vì là những người giỏi tập trung trí tuệ. Nhưng giống như tất cả các thần sát, ngũ hành...v.v.. khác, nếu gặp Không Vong, hình xung khắc hại thì mọi sự đảo ngược, hoặc lệch lạc hướng đi, có ưu tú đấy nhưng khi hành xử thì không phân minh.
Bởi vì tính chất của Mộ là yên tĩnh, mà bị động thì mất tập trung. Nhất là trẻ em thì học hành không thông suốt ở những giai đoạn gặp HC bị khắc là vậy.
Học Tử bình cũng không cần thiết phải có Hoa Cái, đấy chỉ là một môn cần nghiên cứu sâu như mọi môn học khác. __________________
====
(theo Moclan, nhantrachoc.vn)
Phần 2: Hình xung khắc hại giữa địa chi
Sau khi xác định cơ bản tính chất của nhật chủ và lệnh tháng không có Ấn Kiêu để sinh trợ cho thân, việc quan sát tứ trụ tiếp tục với sự quan hệ giữa các Địa Chi. Bạn nên thuộc bảng sinh, khắc, hình, hại, phá, hợp, không vong, vì sẽ phải dùng đến trong nhiều phần khác trong cung mệnh, đại vận, lưu niên.
1). Tìm xem mối quan hệ giữa các địa chi trong bốn trụ. Với thí dụ ở phần 1, ta thấy chi Dậu hại chi Tuất:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Bính|Đinh|Quí|Bính
Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất
Nhắc lại các loại Hình, Hại, Xung, Phá, Hợp đều phải đứng cạnh nhau trong tứ trụ thì mới tính. Như thí dụ trên thì Dậu không có quan hệ gì với Hợi và Thìn, mà chỉ tính Tuất Dậu thuộc loại Hại.
2). Xem mối quan hệ lục thân của các trụ. Căn bản thì các trụ đại diện cho mối quan hệ họ hàng như sau:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ
tổ tiên, ông bà|cha mẹ|Can: chính mình, Chi: chồng, vợ|con cái
Với thí dụ Dậu hại Tuất ở 2 cung năm và tháng, có thể cho thấy sự mâu thuẫn hay khó khăn xảy ra giữa ông bà và cha mẹ.
3). Bây giờ là đến phần so sánh các loại hình hại xung khắc giữa tứ trụ và đại vận. Bạn phải biết cách lập đại vận là tính từ tháng. Nam sinh năm dương là dương nam, nữ sinh năm âm là âm nữ, đều tính thuận từ tháng trở đi. Ngược lại, âm nam và dương nữ phải tính ngược. Điều này không nói lên sự việc vận đi thuận là tốt và vận đi nghịch lại là xấu. Hoàn toàn phải dựa vào ngũ hành thuận lợi hay bất lợi thì mới biết là vận thuận hay nghịch vận. Nhưng ở đây ta chỉ chú trọng vào mối quan hệ giữa các Chi với nhau để có một cái nhìn tổng quát. Lại xin nhắc lại rằng không phải Khắc là luôn luôn xấu và Hợp luôn luôn tốt. Đôi khi các kị thần họp lại với nhau thì thân chủ càng thêm mệt, vì sự khắc chế nặng nề, cho dù vận đó trên thiên can xem như là thuận lợi.
Có người chỉ xem địa chi của Vận, không xem thiên can là quan trọng vì cho rằng Can là thứ yếu. Tôi xem cả hai như nhau, nhất là khi Thiên can biểu hiện lại sự xung khắc sẵn có trong tứ trụ. Thí dụ như Nhâm khắc Bính trong trụ, đến vận Nhâm thì điều khắc chế này sẽ xảy ra, cho dù địa chi mang hành dụng thần của mình. Sự khắc chế này giảm thiểu hay mất hẳn đi lại là một phần khác, xin nói rõ sau.
Trở lại tứ trụ của cháu trai và đại vận cùng mối quan hệ giữa các địa chi với nhau:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Bính|Đinh|Quí|Bính
Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất
2-11 tuổi|12-21|22-31|32-41
Mậu Tuất|Kỉ Hợi|Canh Tí|Tân Sửu
Theo bảng hình hại ta nhận thấy
-Vận Mậu Tuất: Tuất phá Dậu
-Vận Kỉ Hợi: Hợi hình Hợi
-Vận Canh Tí: Tí bán hợp với Thìn thành Thủy cục, và Tí đồng thời cũng phá Dậu
-Vận Tân Sửu: Sửu-Tuất-Thìn là 1 loại tam hình
4). Sau đó là nhận định thêm vài khía cạnh khác thông qua lục thân.
- Vận Kỉ Hợi hình thành loại Hình này ở trụ ngày là có liên quan đến người trong nhà. Hợi cũng là Thủy tức là Kiếp của nhật chủ Quí, thì có thể đoán sự việc xảy ra giữa mình và anh chị em hoặc bà con đang ở trong nhà mình. Trụ ngày với Chi là nói đến chồng vợ, nhưng cũng đề cập đến “nhà” tức là căn hộ mà nhiều người sống chung trong đó một thời gian lâu, không chỉ nói đến chồng hay vợ. Nhất là đại vận Kỉ Hợi này cậu bé mới chỉ 12-21 tuổi thì không nói hẳn được về người vợ. Lại nữa, khi thấy chi của trụ ngày bị hình thì cậu ta không dễ gì lấy vợ sớm khi 20 tuổi. Cũng nên tùy theo vận tuổi mà linh động xét đoán.
- Vận Canh Tí thấy có lọai Phá giữa Tí Dậu, đụng chạm với trụ tháng. Có thể đoán một sự khó khăn hay có vấn đề cãi cọ, xung khắc xảy ra giữa mình và cha mẹ, hoặc giữa mình và một người có chức vị cao hơn mình, bởi vì trụ tháng còn đại diện cho ông chủ, người cấp cao hoặc đại diện pháp luật. Đồng thời Tí bán hợp Thìn là Thủy cục, cũng có thể dễ luận đoán thân chủ sẽ có khuynh hướng ngã về các loại tứ đổ tường, thí dụ như rượu, nghiện ngập. Nếu nhẹ hơn là bị sức ép ở chỗ làm hoặc gia đình. Canh Tí vận ở giai đoạn đang làm việc và xây dựng bản thân nên nghiêng về giải đóan sinh hoạt nghề nghiệp là đúng nhất.
Những người chưa làm quen với Tử bình lâu ngày sẽ rất dễ nhớ phần hình xung khắc hại giữa các chi, vì chúng ta ai cũng thuộc Ngũ hành, 12 địa chi và 10 Can. Đấy là một thuận lợi cho bước đi ban đầu. Những phần khó hơn như thập thần, thần sát, dụng thần, kị thần… v.v… thật ra cũng xuất phát từ các sự liên hệ giữa ngũ hành và can chi. Sau khi nắm vững bảng tứ trụ và đại vận với các bước đi giản đơn như trên, sẽ không khó khăn gì khi bắt đầu học các thuật ngữ mới.
Sau khi xác định cơ bản tính chất của nhật chủ và lệnh tháng không có Ấn Kiêu để sinh trợ cho thân, việc quan sát tứ trụ tiếp tục với sự quan hệ giữa các Địa Chi. Bạn nên thuộc bảng sinh, khắc, hình, hại, phá, hợp, không vong, vì sẽ phải dùng đến trong nhiều phần khác trong cung mệnh, đại vận, lưu niên.
1). Tìm xem mối quan hệ giữa các địa chi trong bốn trụ. Với thí dụ ở phần 1, ta thấy chi Dậu hại chi Tuất:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Bính|Đinh|Quí|Bính
Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất
Nhắc lại các loại Hình, Hại, Xung, Phá, Hợp đều phải đứng cạnh nhau trong tứ trụ thì mới tính. Như thí dụ trên thì Dậu không có quan hệ gì với Hợi và Thìn, mà chỉ tính Tuất Dậu thuộc loại Hại.
2). Xem mối quan hệ lục thân của các trụ. Căn bản thì các trụ đại diện cho mối quan hệ họ hàng như sau:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ
tổ tiên, ông bà|cha mẹ|Can: chính mình, Chi: chồng, vợ|con cái
Với thí dụ Dậu hại Tuất ở 2 cung năm và tháng, có thể cho thấy sự mâu thuẫn hay khó khăn xảy ra giữa ông bà và cha mẹ.
3). Bây giờ là đến phần so sánh các loại hình hại xung khắc giữa tứ trụ và đại vận. Bạn phải biết cách lập đại vận là tính từ tháng. Nam sinh năm dương là dương nam, nữ sinh năm âm là âm nữ, đều tính thuận từ tháng trở đi. Ngược lại, âm nam và dương nữ phải tính ngược. Điều này không nói lên sự việc vận đi thuận là tốt và vận đi nghịch lại là xấu. Hoàn toàn phải dựa vào ngũ hành thuận lợi hay bất lợi thì mới biết là vận thuận hay nghịch vận. Nhưng ở đây ta chỉ chú trọng vào mối quan hệ giữa các Chi với nhau để có một cái nhìn tổng quát. Lại xin nhắc lại rằng không phải Khắc là luôn luôn xấu và Hợp luôn luôn tốt. Đôi khi các kị thần họp lại với nhau thì thân chủ càng thêm mệt, vì sự khắc chế nặng nề, cho dù vận đó trên thiên can xem như là thuận lợi.
Có người chỉ xem địa chi của Vận, không xem thiên can là quan trọng vì cho rằng Can là thứ yếu. Tôi xem cả hai như nhau, nhất là khi Thiên can biểu hiện lại sự xung khắc sẵn có trong tứ trụ. Thí dụ như Nhâm khắc Bính trong trụ, đến vận Nhâm thì điều khắc chế này sẽ xảy ra, cho dù địa chi mang hành dụng thần của mình. Sự khắc chế này giảm thiểu hay mất hẳn đi lại là một phần khác, xin nói rõ sau.
Trở lại tứ trụ của cháu trai và đại vận cùng mối quan hệ giữa các địa chi với nhau:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ
Bính|Đinh|Quí|Bính
Tuất|Dậu|Hợi|Thìn
mậu, đinh, tân|tân|nhâm, giáp|mậu, quí, ất
2-11 tuổi|12-21|22-31|32-41
Mậu Tuất|Kỉ Hợi|Canh Tí|Tân Sửu
Theo bảng hình hại ta nhận thấy
-Vận Mậu Tuất: Tuất phá Dậu
-Vận Kỉ Hợi: Hợi hình Hợi
-Vận Canh Tí: Tí bán hợp với Thìn thành Thủy cục, và Tí đồng thời cũng phá Dậu
-Vận Tân Sửu: Sửu-Tuất-Thìn là 1 loại tam hình
4). Sau đó là nhận định thêm vài khía cạnh khác thông qua lục thân.
- Vận Kỉ Hợi hình thành loại Hình này ở trụ ngày là có liên quan đến người trong nhà. Hợi cũng là Thủy tức là Kiếp của nhật chủ Quí, thì có thể đoán sự việc xảy ra giữa mình và anh chị em hoặc bà con đang ở trong nhà mình. Trụ ngày với Chi là nói đến chồng vợ, nhưng cũng đề cập đến “nhà” tức là căn hộ mà nhiều người sống chung trong đó một thời gian lâu, không chỉ nói đến chồng hay vợ. Nhất là đại vận Kỉ Hợi này cậu bé mới chỉ 12-21 tuổi thì không nói hẳn được về người vợ. Lại nữa, khi thấy chi của trụ ngày bị hình thì cậu ta không dễ gì lấy vợ sớm khi 20 tuổi. Cũng nên tùy theo vận tuổi mà linh động xét đoán.
- Vận Canh Tí thấy có lọai Phá giữa Tí Dậu, đụng chạm với trụ tháng. Có thể đoán một sự khó khăn hay có vấn đề cãi cọ, xung khắc xảy ra giữa mình và cha mẹ, hoặc giữa mình và một người có chức vị cao hơn mình, bởi vì trụ tháng còn đại diện cho ông chủ, người cấp cao hoặc đại diện pháp luật. Đồng thời Tí bán hợp Thìn là Thủy cục, cũng có thể dễ luận đoán thân chủ sẽ có khuynh hướng ngã về các loại tứ đổ tường, thí dụ như rượu, nghiện ngập. Nếu nhẹ hơn là bị sức ép ở chỗ làm hoặc gia đình. Canh Tí vận ở giai đoạn đang làm việc và xây dựng bản thân nên nghiêng về giải đóan sinh hoạt nghề nghiệp là đúng nhất.
Những người chưa làm quen với Tử bình lâu ngày sẽ rất dễ nhớ phần hình xung khắc hại giữa các chi, vì chúng ta ai cũng thuộc Ngũ hành, 12 địa chi và 10 Can. Đấy là một thuận lợi cho bước đi ban đầu. Những phần khó hơn như thập thần, thần sát, dụng thần, kị thần… v.v… thật ra cũng xuất phát từ các sự liên hệ giữa ngũ hành và can chi. Sau khi nắm vững bảng tứ trụ và đại vận với các bước đi giản đơn như trên, sẽ không khó khăn gì khi bắt đầu học các thuật ngữ mới.
Mấy hôm nay bàn dân bị sốc vì cái chết của
Michael Jackson và người ta đang tìm lại giờ sinh của ông vua nhạc Pop này.
Ngẫm nghĩ cũng lạ lùng... khi chết mới ráo riết tìm lại giờ sinh ra đời cho
đúng, để làm gì? Để chứng nhận cho cái chết! Tại sao phải rắc rối thế?
Trên thế giới cùng trong ngày 25.6.2009 có biết bao nhiêu người gặp tử thần, nguyên nhân chết có đến hàng vạn lý do, ta chỉ nghe nói đến có 1 hay 2 trường hợp trong vạn trường hợp, nên khi chỉ muốn tìm một sự "chính xác một trăm phần trăm" là điều không thể làm được. Chính vì thế trong Tử Bình nên dùng lý luận chung nhất là xài, theo tôi thì hiểu rõ ngọn nghành là bất tận, nếu rơi vào việc kiếm tìm sự hoàn mỹ là không bao giờ đến.
Trong ngày 25 có thêm một cái chết của Farrah Fawcett, nữ diễn viên đóng phim nổi tiếng "Thiên thần của Charlie", thử tìm xem sự giống nhau của 2 tứ trụ này là biết cái điều chung nhất nằm ở đâu.
Theo nhiều thông tin, thí dụ như tạm chấp nhận 2 tứ trụ sau đây là của M.Jackson và F.Fawcett:
Michael: 29.8.1958, 12 giờ 44 phút tại Indiana
Farrah: 2.2.1947, 15 giờ 10 phút tại Texas
Họ cùng là người nổi tiếng, cùng có nguyên nhân chết là do bịnh tình, trực tiếp hay gián tiếp qua thuốc men. Khi đến vận hạn cực xấu như vậy, hãy nhìn lại đại vận, lưu niên và các Chi trong trụ, chưa nói đến dụng hay kị thần.
Đại vận của Michael: Ất Sửu, Farrah: Ất Mùi, lưu niên: Kỷ Sửu
Bạn có nhớ hạn tam hình của công nương Diana cũng là Sửu Tuất Mùi? Vậy nhìn chung là hạn Thổ có thể gây vấn đề lớn. Nhưng gây vấn đề cho ai? Hành nào? Hãy xem lại vòng tương sinh, tương khắc, hình hại...
1. Thổ do Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ cháy khét, hoặc ngược lại, Thổ nhiều thì Hỏa vào đường cùng không phát triển thêm được.
2. Thổ sinh Kim, nhưng Kim nhiều thì Thổ biến dạng
3. Thổ đi khắc Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ trôi giạt
4. Thổ mà đang suy lại gặp Mộc thì bị hãm hại
Trong trụ của M.Jackson, so các Chi của 6 trụ lại với nhau thì thấy:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ|Đại vận|2009
Mậu|Canh|Mậu|Mậu|Ất|Kỷ
Tuất|Thân|Dần|Ngọ|Sửu|Sửu
Dần Ngọ Tuất = Hỏa cục; Ất Canh = Kim là 2 chốt của vấn đề. Hai Sửu đến phá tan Hỏa cục, vì Sửu và Tuất thuộc tam hình Thổ. Mà Hỏa chính là Ấn (sức khỏe) của nhật chủ Thổ.
Ất Mộc gặp Canh Kim thì Ất theo Canh hóa thành Kim, cũng hiểu là nếu Ất là dụng hay hĩ thần là bị Canh hóa mất, hoặc ngược lại, nếu Canh là dụng hĩ thần thì rơi vào trường hợp 2 (Thổ sinh Kim, nhưng Kim quá mạnh thì Thổ biến dạng, như đất khác quặng mỏ là vậy).
Còn vài chi tiết nhận xét khác, như Ất gặp Kỷ là Can xung khắc nhau (âm mộc khắc âm thổ, âm khắc âm rất nặng)
Nhìn chung thì Mậu, Kỷ khá nhiều; Thổ nhiều thì khắc ngược lại Hỏa như điểm 1.
Trụ của Farrah? Các bạn thử phân tích trước để rõ.
Trên thế giới cùng trong ngày 25.6.2009 có biết bao nhiêu người gặp tử thần, nguyên nhân chết có đến hàng vạn lý do, ta chỉ nghe nói đến có 1 hay 2 trường hợp trong vạn trường hợp, nên khi chỉ muốn tìm một sự "chính xác một trăm phần trăm" là điều không thể làm được. Chính vì thế trong Tử Bình nên dùng lý luận chung nhất là xài, theo tôi thì hiểu rõ ngọn nghành là bất tận, nếu rơi vào việc kiếm tìm sự hoàn mỹ là không bao giờ đến.
Trong ngày 25 có thêm một cái chết của Farrah Fawcett, nữ diễn viên đóng phim nổi tiếng "Thiên thần của Charlie", thử tìm xem sự giống nhau của 2 tứ trụ này là biết cái điều chung nhất nằm ở đâu.
Theo nhiều thông tin, thí dụ như tạm chấp nhận 2 tứ trụ sau đây là của M.Jackson và F.Fawcett:
Michael: 29.8.1958, 12 giờ 44 phút tại Indiana
Farrah: 2.2.1947, 15 giờ 10 phút tại Texas
Họ cùng là người nổi tiếng, cùng có nguyên nhân chết là do bịnh tình, trực tiếp hay gián tiếp qua thuốc men. Khi đến vận hạn cực xấu như vậy, hãy nhìn lại đại vận, lưu niên và các Chi trong trụ, chưa nói đến dụng hay kị thần.
Đại vận của Michael: Ất Sửu, Farrah: Ất Mùi, lưu niên: Kỷ Sửu
Bạn có nhớ hạn tam hình của công nương Diana cũng là Sửu Tuất Mùi? Vậy nhìn chung là hạn Thổ có thể gây vấn đề lớn. Nhưng gây vấn đề cho ai? Hành nào? Hãy xem lại vòng tương sinh, tương khắc, hình hại...
1. Thổ do Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ cháy khét, hoặc ngược lại, Thổ nhiều thì Hỏa vào đường cùng không phát triển thêm được.
2. Thổ sinh Kim, nhưng Kim nhiều thì Thổ biến dạng
3. Thổ đi khắc Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ trôi giạt
4. Thổ mà đang suy lại gặp Mộc thì bị hãm hại
Trong trụ của M.Jackson, so các Chi của 6 trụ lại với nhau thì thấy:
Năm|Tháng|Ngày|Giờ|Đại vận|2009
Mậu|Canh|Mậu|Mậu|Ất|Kỷ
Tuất|Thân|Dần|Ngọ|Sửu|Sửu
Dần Ngọ Tuất = Hỏa cục; Ất Canh = Kim là 2 chốt của vấn đề. Hai Sửu đến phá tan Hỏa cục, vì Sửu và Tuất thuộc tam hình Thổ. Mà Hỏa chính là Ấn (sức khỏe) của nhật chủ Thổ.
Ất Mộc gặp Canh Kim thì Ất theo Canh hóa thành Kim, cũng hiểu là nếu Ất là dụng hay hĩ thần là bị Canh hóa mất, hoặc ngược lại, nếu Canh là dụng hĩ thần thì rơi vào trường hợp 2 (Thổ sinh Kim, nhưng Kim quá mạnh thì Thổ biến dạng, như đất khác quặng mỏ là vậy).
Còn vài chi tiết nhận xét khác, như Ất gặp Kỷ là Can xung khắc nhau (âm mộc khắc âm thổ, âm khắc âm rất nặng)
Nhìn chung thì Mậu, Kỷ khá nhiều; Thổ nhiều thì khắc ngược lại Hỏa như điểm 1.
Trụ của Farrah? Các bạn thử phân tích trước để rõ.